Đề bài: Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh
ánh trăng trong các bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận; “Đồng chí” của
Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
- Lập
dàn ý
1.
Mở
bài sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm
– Giới thiệu về ánh trăng: như một người bạn gắn bó.
– Sự khám phá vẻ đẹp của ánh trăng được phô diễn trong các vần
thơ.
– Ánh trăng vĩnh hằng, bất diệt thể hiện trong 3 tác phẩm: Đoàn
thuyền đánh cá; Đồng Chí; Ánh trăng…
2.
Thân
bài : Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm
– Hình ảnh ánh trăng làm bạn đồng hành, cùng đồng cam cộng khổ
với các anh bộ đội trong tác phẩm Đồng Chí
– Cách xây dựng hình ảnh ánh trăng trong thơ Chính Hữu mang tính
biểu tượng sâu sắc.
– Hình ảnh ánh trăng trong thơ của Huy Cận mang đậm chất vui
tươi, hứng khỏi của cuộc sống lao động vùng biển
– Ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với con người
lao động
– Ánh trăng quyện với hơi thở của nước Hạ Long tạo nên một không
khí vừa hứng khởi lại vừa nên thơ
– Vẻ đẹp của hình ảnh ánh trăng trong sự gắn bó với con người
nhưng còn pha màu triết lí thâm trầm và đầy ấn tượng trong thơ Nguyễn Duy.
– Tác giả Nguyễn Duy như nhìn thấy phần khuất tối của mình, thấy
được sự vô tâm, quên lãng đáng trách.
– Bài thơ “Ánh trăng” là dòng hoài niệm của nhà thơ về quá khứ
nghĩa tình về tuổi thơ hạnh phúc
3.
Kết
bài: Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm:
– Khẳng định là về ý nghĩa, vẻ đẹp, sự thủy chung của trăng qua
hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm.
- Bài
làm:
MB:
Có thể nói trăng là sự kết tinh của những gì đẹp nhất, tinh túy
nhất, vẻ đẹp của nó đủ để làm mê đắm hồn thi nhân. Trăng như một người bạn hữu
gắn bó bền chặt với con người, là thú vui để họ đăng lầu vọng nguyệt, đàm đạo
thi ca. Ánh trăng dát vàng lung linh ánh sáng dịu nhẹ ấy tỏa lan mọi nẻo đường,
nó như chạm đến cả tâm hồn thi nhân. Bởi vậy mà trăng luôn là bến đợi, bến chờ
của nhiều tác giả.Họ đã đi sâu vào khám phá mọi khía cạnh trong vẻ đẹp của ánh
trăng bằng sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc.Và sự khám phá ấy như được phô diễn,
được thấm nhuần qua từng câu thơ, từng trang viết.Hình ảnh Ánh trăng đã đi vào
thơ ca với vẻ đẹp vĩnh hằng, giờ đây nó như hiện hữu bất diệt trong các bài thơ
“Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận; “Đồng chí” của Chính Hữu và “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy.Ở mỗi tác phẩm hình ảnh ánh trăng đều chứa đựng những
khám phá và thể hiện mới mẻ độc đáo của tác giả.
TB:
GT: Tác phẩm văn họclà đứa con tinh thần của người
NS, là nơi hội tụ tài năng và và tâm hồn tác giả. TP NT chính là thế giới khách
quan được nhìn qua lăng kính tâm hồn nhà văn nên bao giờ nó cũng in đậm dấu ấn
cá nhân của người cầm bút.
- Mà mỗi TPVC là nhịp cầu nối nhà văn với độc giả. Qua TP ta cảm
nhận được tư tưởng, tình cảm, cách nhìn cách nghĩ và những khám phá sáng tạo
củả nhà văn về nội dung cũng như những phát hiện mới mẻ độc đáo về nghệ thuật.
Hay nói cách khác: “ Mỗi
tác phẩm NT phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.
Nhờ những phát hiện mới mẻ đó mà TPNT sẽ chạm đến trái tim người đọc, khơi dậy
những tình cảm đẹp đẽ, giúp người đọc có được “những bài học trông nhìn và thưởng thức”. Hình ảnh ánh trăng trong 3
bài thơ…. đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bởi những khám phá mới
mẻ độc đáo
1. Bài đồng chí:
* Khám phá:
Trong vườn thơ dân tộc, ta đã bắt gặp hình ảnh ánh trăng trong
nhiều thi phẩm với nhiều ý nghĩa khác nhau.Nó bao trùm tạo vật, gắn bó với con
người dẫu đó là lúc gian khổ của chiến tranh khi hòa bình lập lại. Phải chăng
vì thế mà nó đã được các nhà thơ khám phá và thể hiện một cách vừa gần gũi lại
vừa riêng biệt trên những trang viết của mình? Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính
Hữu, ta dễ bắt gặp hình ảnh ánh trăng đồng cam cộng khổ cùng những người lính
trong thời chống Pháp. Nhà thơ đã gợi mở một không gian bao la của núi rừng
Việt Bắc, một hoàn cảnh khắc nghiệt của đêm đông lạnh giá để rồi trăng xuất
hiện làm tan biến hết những gian khổ thử thách ấy. Nếu qua những “Cơn ớn lạnh”,
những trận “Sốt run người” và những thiếu thốn về vật chất, ta thấy những biểu
hiện yêu thương đùm bọc của tình đồng chí thì khổ thơ cuối lại nêu lên những
biểu hiện cao đẹp nhất, đó là chung chiến hào:
“ Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Trong đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến
khu, trong gian khổ khắc nghiệt, trong căng thẳng “Chờ giặc tới” thi các chiến
sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau.Và trong hoàn cảnh đó thì
trăng cũng như một người đồng chí, đồng đội luôn gắn bó và tỏa ánh sáng ấm nồng
làm dịu đi cái rét buốt của thiên nhiên. Ánh trăng soi sáng tạo vật, rọi sáng
mọi nẻo đường lối đi của các anh lính Cụ Hồ. Nếu người lính trên đường ra trận
có ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan thì người lính đi phục kích giặc giữa một
đêm đông “rừng hoang sương muối” lại có “đầu súng trăng treo”. Dưới cái nhìn
của người lính thì súng và trăng không còn khoảng cách nữa mà quấn quyện với
nhau làm tan biến cái hiện thực của chiến tranh gian khổ. Hình ảnh ánh trăng
trong thơ Chính Hữu khiến người đọc mê đắm và hòa mình vào không gian bao lãng
mạn dưới ánh sáng dát vàng lung linh. Nó như nguồn sáng vô tận rọi vào bức
tranh một ánh sáng riêng, một màu sắc riêng thấm đẫm tình người.
Phải chăng đó chính là sự khám phá sâu sắc, sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ?
*Thể hiện:Bài thơ “Đồng Chí” quả thực là một thi phẩm
tràn ngập ánh trăng. Nó thể hiện rõ phong cách thơ Chính Hữu.Ngôn ngữ thơ hàm
sức, mộc mạc, tiết kiệm trong từng hình ảnh, từng câu chữ mà gợi lên nhiều ý
nghĩa.Câu thơ chắc gọn bên ngoài mà ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết bên
trong.Có thể nói, nét độc đáo và đặc sắc nhất trong cách thể hiện của Chính Hữu
là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn. Nhà thơ
đã xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc “Súng” và “trăng” là gần và
xa, là thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và
chất thi sĩ. Phải chăng đó là cách thể hiện rất riêng trong thơ Chính Hữu?
2. Bài Đòan thuyền
đánh cá:
* Khám phá:Cũng viết
về hình ảnh ánh trăng nhưng trong thời kì đổi mới ở miền Bắc thì Huy Cận lại có
sự khám phá rất khác biệt so với Chính Hữu. Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”; người đọc
như được đắm mình trong những trang viết thấm nhuần ánh trăng cuộc sống lao
động. Nếu trước năm 1945, thơ Huy Cận giàu chất triết lý và thấm thía bao nỗi
buồn thì sau Cách mạng, thơ ông lại dạt dào niềm vui, nhất là khi ông nói về
cuộc sống mới, con người mới. Phải chăng vì thế mà hình ảnh ánh trăng trong thơ
của ông cũng mang đậm chất vui tươi, hứng khỏi của cuộc sống lao động vùng
biển? Huy Cận đã hòa nhập vào cuộc sống lao động và khai thác ý nghĩa của hình
ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với con người lao động làm chủ cuộc đời. Nhà
thơ đã gợi lên bầu không khí hồ hởi, tràn ngập sức sống của cảnh đánh cá trên
biển mênh mông rộng lớn. Ông đã nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào
con người để rồi vẽ nên một khung cảnh lao động vừa thực vừa ảo:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Nếu trong cảnh rừng hoang sương muối, trang đồng cam cộng khổ
như một người đồng chí, đồng đội thì giờ đây trong công việc đánh bắt cá của
ngư dân, trăng lại là một người bạn đồng hành trên mọi chuyến ra khơi. Đoàn
thuyền “lướt”nhẹ mà nhanh trên mặt biển hiền hòa phẳng lặng như một tấm gương
soi cảnh trời mây. Trong cái tốc độ phi thường của con thuyền thì có gió lái
thuyền đi, buồm đầy trăng sáng. Nhưng nhà thơ lại viết “Thuyền ta lái gió với
buồm trăng” thì hình như nó đã biến thành đoàn thuyền của toa nhận mặc khách
rồi, đâu còn là đoàn thuyền của ngư dân đánh cá nữa! Ánh trăng theo con người
đi khắp biển khơi, tỏa ánh sáng lung linh dát vàng trong đèn tối soi tỏ mọi
hoạt động của ngư dân. Biển nước chan hòa ánh trăng làm lộ ra những con cá rực
rỡ sắc màu. Ánh trăng quyện với hơi thở của nước Hạ Long tạo nên một không khí
vừa hứng khởi lại vừa nên thơ, khiến người đọc như đi vào cõi mộng.Phải
chăng đó chính là sự khám phá của Huy Cận về hình ảnh ánh trăng tròn và sự gắn
bó với con người lao động làm chủ đất nước?
* Thể hiện:Nhà thơ đã vẽ nên một khung cảnh lao động
tràn ngập ánh trăng với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú,
với trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện. Huy Cận đã sáng tạo
hình ảnh đẹp, độc đáo qua cách sử dụng màu sắc, sử dụng các thủ thuật nghệ
thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng. Từng câu thơ đều thấm đượm bao
sức sống mãnh liệt của người dân vùng biển cũng thấm đượm ánh trăng.Đó chính là cách thể hiện rất riêng trong thơ Huy Cận.
3. Bài Ánh trăng:
* Khám phá:Thơ Nguyễn Duy cũng đi sâu vào khám phá vẻ đẹp
của hình ảnh ánh trăng trong sự gắn bó với con người nhưng còn pha màu triết lí
thâm trầm và đầy ấn tượng. Ánh trăng ấy tỏa sáng bất diệt, vĩnh hằng trong bài
thơ “Ánh trăng” một bài thơ được cô đúc nên từ tâm sự.
Có lẽ nhìn trăng tác giả như nhìn thấy phần khuất tối của
mình, thấy được sự vô tâm, quên lãng đáng trách. Xưa, Nguyễn Tuân đã từng coi
trăng là “cố nhân”, Xuân Diệu trong bài “Nguyệt Cầm” cũng đã tha thiết gọi:
“Trăng thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần”. Trở lại với bài thơ “Ánh
trăng”, bao nhiêu cảm xúc dường như nén lại nhưng nó cứ thổn thức trong lòng.
Trong cái khoảnh khắc bất ngờ ấy khiến cho lòng người trở nên “rưng rưng” – cái
“rưng rưng” làm cho con người thanh thản lại, vững tâm lại, cái tốt như hé lộ.
Cái nút tâm lí giờ đây đã được nới rộng và niềm tâm sự cũng đang dần được tháo
gỡ.Cuộc gặp gỡ giữa trăng với người không hề “tay bắt mặt mừng” mà lắng xuống ở
độ sâu cảm nghĩ. Xưa Lí Bạch có viết:
“ Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
Nếu ở đây, hai câu thơ trên khơi nguồn cảm xúc cho thơ hướng về
quê hương thì trong thơ Nguyễn Duy, trăng lại đưa người đọc tìm về những miền
kí ức xa xăm trong quá khứ.Nhìn trăng, nhà thơ nhìn thấy bao kỉ niệm đẹp chợt
ùa về – những kỉ niệm đầm ấm nghĩa tình.“Đồng, sông, bể, rừng” tất cả những thứ
ấy, thứ quen thuộc với quá khứ lại hiện hữu trong tâm trí con người.Những chặng
đường của quá khứ và hiện tại cứ nối nhau, lúc thì đan xen, khi thì tách rời
khiến ta nhìn rõ nét băm khoăn, rối bời của tâm trạng.Trước cái nhìn sám hối
của nhà thơ, vầng trăng như gợi lên báo cái “còn” mà con người tưởng chừng như
đã mất.Hai gương mặt đối diện với nhau ở đây lấp lánh những điều không nói.Phải
chăng nó khiến ta nhớ đến khi tình yêu mới bén giữa Kim Trọng và Thúy Kiều?Cũng
chính trong giây phút ấy, vầng trăng đã trả cho nhà thơ sự vô tư và tình người
dạt dào.Đoạn thơ như đã khắc sâu điều mà nhà thơ muốn tâm sự. Phải chăng những
kỉ niệm này cũng khơi dậy cái ân tình sâu nặng của một thế thời chinh chiến?
Nguyễn Duy đã đem phần đẹp nhất, nhân hậu nhất, trong sáng nhất
của trăng để soi vào phần đen tối nhất của con người. Trăng là biểu tượng cho
quá khứ nghĩa tình, cho sự bất biến, cho vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc đời. Thời
gian, kỉ niệm cứ như dòng chảy không ngừng những nó đâu cuốn đi được lòng thủy
chung son sắt của trăng? Cái tròn đầy đó đối lập với cái hụt với của kẻ vô
tình. Trăng bao dung độ lượng biết bao! .“Ánh trăng im phăng phắc” gợi liên
tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc khiến nhà thơ giật mình thức tỉnh mặc dù trăng
không một lời oán trách.Nhìn trăng – tác giả như nhìn thấy sự vô tâm quên lãng
của mình đối với người bạn tri kỉ trong một thời gian quá khứ.Cái “Giật mình”
ấy thật đáng trân trọng – một sự thức tỉnh của lương tâm. Phải chăng qua đó tác
giả muốn rung lên hồi chuông cảnh tỉnh mọi người? Thế mới biết, những bài học
sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách ở hay từ những khái niệm
trừu ượng xa xôi!
Trong bài thơ, ánh trăng tỏa sáng không gian, rọi sáng tâm hồn,
làm sống dậy trong tâm trí con người bao kỉ niệm gian lao mà đầm ấm nghĩa tình.
Những tâm sự sâu kín của người thi sĩ giờ đây là tình cảm chung của cả một thế
hệ nặng sâu ân tình. Ta dễ thấy, suốt cả bài thơ chỉ có một chủ thể nhưng cái
chủ thể ấy lại dấu mình vô danh. Phải chăng qua đó, Nguyễn Duy muốn nói lên tâm
sự chung của mọi người thuộc cùng thế hệ? Cả bài thơ là dòng hoài niệm của nhà
thơ về quá khứ nghĩa tình về tuổi thơ hạnh phúc.Đó không còn là một câu chuyện
riêng, một tâm sự riêng mà là tiếng lòng sâu sắc của bao người khác.Cái “tôi”
chủ quan giờ đã biến thành cái “ta” mang ý nghĩa khái quát hơn, rộng lớn hơn.
Cái chung và cái riêng – cái kỉ niệm và cái ân tình cứ hòa quyện với nhau tạo
nên một hồn thơ dạt dào cảm xúc.
*Thể hiện:……………………………………
Vậy với tư cách là một độc giả đi dạo trên chuyến đò thời gian
men theo dòng hoài niệm của Nguyễn Duy, ta có thể khẳng định rằng bài thơ “Ánh
trăng” là một bài thơ hay mang đầy giá trị. Cái giá trị ấy là sự kết tinh của
dòng cảm xúc sâu lắng và chất triết lí thâm trầm.Bài thơ là sự giao nhau của
tâm hồn thi sĩ với tâm sự nghĩa tình của cả một thế hệ.Chúng hòa quyện với nhau
tạo nên một tư tưởng triết lí sâu xa.
KB: Qua ba tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”, “Đồng
chí”, “Ánh trăng” chúng ta thấy rõ sự khám phá và cách thể hiện
hình ảnh ánh trăng của ba nhà thơ. Ánh trăng không chỉ là ngọn đèn soi sáng
giữa đêm tối mập mờ, mà nó còn là người bạn chi kỉ trên suốt chặng đường ta đi.
Dù khó khăn, gian khổ, hiểm nguy ánh trăng vẫn là người bạn luôn sánh bước bên
ta. Ánh trăng thủy chung, trọn vẹn, nghĩa tình sắt son. Đó là đạo lí đắt
giá không chỉ cho thế hệ những người đã qua một thời trận mạc mà còn cho cả một
lớp người mai sau.
Đề bài: Hình ảnh ánh trăng trong hai bài thơ
Đồng chí của Chính Hữu và Ánh trăng của Nguyễn Duy.
1. Giới thiệu chung:
- Chính Hữu và bài thơ
"Đồng chí":
+ Chính Hữu là nhà thơ
trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.Thơ ông mang cảm xúc chân thành, mãnh
liệt, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giọng điệu phong phú.
+ Bài thơ “Đồng chí”
được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, được in trong tập “Đầu súng trăng treo” và
là một trong những thi phẩm thành công nhất của Chính Hữu, tiêu biểu cho thơ ca
kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).
- Nguyễn Duy và bài
thơ "Ánh trăng":
+ Nguyễn Duy là một
nhà thơ quân đội, đã được giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ 1972 – 1973,
một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.
+ Bài thơ "Ánh
trăng" nằm trong tập thơ cùng tên - tập thơ được tặng giải A của Hội Nhà
Văn Việt Nam năm 1984. Tác phẩm có ý nghĩa triết lý sâu sắc, là lời nhắc nhở về
lối sống nghĩa tình, thủy chung với quá khứ gian lao, với thiên nhiên, đất nước
và đồng đội.
- Trong cả hai bài đều
có hình ảnh trăng nhưng mỗi bài lại có những sáng tạo đặc sắc riêng.
2. Phân tích, so sánh
làm sáng tỏ vấn đề:
a/ Điểm giống nhau:
- Trong cả hai bài,
trăng đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, bay bổng, lãng mạn.
- Đều là người bạn tri
kỉ với con người trong chiến đấu và trong sinh hoạt hàng ngày.
b/ Điểm khác nhau:
* Trăng trong bài thơ
Đồng chí của Chính Hữu:
- Được đặt trong thời
gian, không gian: rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo.Trăng xuất hiện trong giờ khắc
trước một trận chiến đấu mà mất mát, hi sinh là những điều không thể tránh
khỏi.
- "Đầu súng trăng
treo": Hình ảnh trăng treo trên đầu súng vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có
tính biểu trưng của tình đồng đội và tâm hồn bay bổng lãng mạn của người chiến
sĩ. Phút giây xuất thần ấy làm tâm hồn người lính lạc quan thêm tin tưởng vào
cuộc chiến đấu và mơ ước đến tương lai hoà bình.
=> Ý nghĩa:
- Trăng là biểu tượng
đẹp của tình đồng chí gắn bó, keo sơn trong cuộc chiến đấu gian khổ ở giai đoạn
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Trăng là hình tượng
hiện thực và lãng mạn, là biểu tượng cho cuộc sống hòa bình, là hình ảnh của
quê hương đất nước.
- Trăng còn là vẻ đẹp
tâm hồn của người chiến sĩ lạc quan, lãng mạn.
* Trăng trong bài thơ
Ánh trăng của Nguyễn Duy:
- Trăng trong quá khứ:
“Hồi chiến tranh ở
rừng
Vầng trăng thành tri
kỉ
...
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình
nghĩa”
Trăng khi đó là ánh
sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian
lao của cuộc kháng chiến - vầng trăng tri kỉ. Nhân vật trữ tình gắn bó với
trăng trong những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thuỷ chung, tình nghĩa.
- Ánh Trăng hiện lên
đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:
“Trăng cứ tròn vành
vạnh
...
Đủ cho ta giật mình”
Trăng tròn vành vạnh
là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh trăng chính là người bạn
nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể
vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn
đầy, bất diệt.
3. Đánh giá chung:
- Với sự sáng tạo tài
tình của các nhà thơ, hình ảnh trăng trong hai tác phẩm thật sự là những hình
ảnh đẹp, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào, sâu lắng.
Hình ảnh trăng trong
ba bài thơ: Đồng chí của Chính Hữu, Đoàn
thuyền đánh cá của Huy Cận và Ánh trăng của
Nguyễn Duy.
Gợi ý:
Câu 1: (2,0 điểm)
- Đoạn văn miêu tả
hình ảnh chiếc lược ngà do chính tay ông Sáu làm để dành tặng con gái mình.
- Cây lược dù nhỏ bé,
dòng chữ trên đó tuy ngắn ngủi nhưng chất
chứa cả một trời yêu thương của tình phụ tử. Trong cái nhìn của ông Sáu, cây
lược như ẩn chứa bóng hình của người con gái mà ông thương yêu tha thiết.
- Cây lược hoàn thành,
ông Sáu cảm thấy thanh thản phần nào, tâm trạng ông bớt rối bời và day dứt về
việc đã trót đánh bé Thu.
- Đoạn văn kết hợp
nhiều phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm; ngôn từ giàu hình ảnh,
cảm xúc.
Câu 2: (3,0 điểm)
- Giải thích được sơ
lược khái niệm “tấm lòng”: là từ dùng để chỉ sự quan tâm, chia sẻ, tình yêu
thương của con người với nhau trong cuộc sống.
- Nó có nhiều biểu
hiện khác nhau nhưng cùng phải xuất phát từ sự chân thành để trao gửi yêu
thương.
- Chỉ ra được giá trị
của “tấm lòng” trong cuộc sống con người: Giúp con người gần nhau hơn, xã hội
tốt đẹp hơn.
- Sống có tấm lòng
phải được coi như một phương châm xử thế, một đạo lý tốt đẹp trong cuộc đời.
Câu 3: (5,0 điểm )
Trên cơ sở hiểu biết
về ba tác phẩm, thí sinh phân tích, so sánh được điểm giống và khác nhau của
hình ảnh trăng trong ba bài thơ. Có thể có nhiều cách trình bày nhưng cần đảm
bảo được các ý cơ bản sau:
* Điểm giống
nhau:
- Đều là hình ảnh
thiên nhiên đẹp, thơ mộng.
- Đều là sự vật gần
gũi, là người bạn thân thiết với con người.
* Điểm khác
nhau:
a) Trăng
trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
- Trăng hiện lên trong
đêm phục kích chờ giặc của những người lính.
- Trăng như một chứng
nhân của tình đồng chí đồng đội giữa những người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu
gian khổ.
- Trăng là hình ảnh
vừa hiện thực vừa lãng mạn, là biểu tượng cho sự thanh bình của cuộc sống, là
chất thơ vút lên giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
- Trăng còn thể hiện
vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ: lạc quan và lãng mạn.
b) Trăng trong bài
thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
- Trăng xuất hiện
trong khung cảnh lao động đánh bắt cá ngoài khơi của người ngư dân.
- Trăng như cánh buồm
chắp cánh cho niềm vui trong lao động, nâng bổng tinh thần hào hứng hăng say
của con người.
- Trăng là nét vẽ tài tình tạo nên bức tranh sơn mài
của biển đêm tráng lệ, rực rỡ sắc màu.
c) Trăng trong bài
thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:
- Trăng gắn liền với
những kỉ niệm của cuộc đời một người lính.
+ Trong quá khứ: Gắn
với tuổi thơ hồn nhiên của nhân vật trữ tình; là “tri kỉ” của tác giả những
tháng năm chiến tranh.
+ Trong hiện tại: Là
“người dưng” đột ngột gặp lại trong một đêm thành phố mất điện, khiến nhà thơ
giật mình, day dứt và suy ngẫm về cách sống hiện tại của mình. Ánh trăng thức
tỉnh lương tâm, nhắc nhở con người không được lãng quên quá khứ, phải sống ân
nghĩa, thuỷ chung.
- Vầng trăng
trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ hiện ra trong những
khoảnh khắc còn vầng trăng trong Ánh trăng lại gắn bó với một
đời người: Quá khứ, hiện tại và có lẽ cả tương lai.
- Nếu như vầng trăng
trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ soi vào phần tươi đẹp
của cuộc sống con người, vào phần chính diện của cuộc đời, thì Ánh
trăng lại soi rọi vào góc khuất tâm hồn con người để thức tỉnh lương
tri, giúp người ta biết sống ân nghĩa, thuỷ chung.
=> Với sự sáng tạo
tài tình của ba nhà thơ, hình ảnh trăng trong ba tác phẩm thực sự là những hình
ảnh đẹp và độc đáo, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào, sâu lắng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét