Marcell Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ
độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Còn Tô Hoài cho rằng: “Mỗi
trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Bằng hiểu biết của anh/ chị về văn học, hãy
bình luận hai ý kiến trên
BÀI LÀM THAM KHẢO
“Mỗi một
con người, trong nội tâm chỉ là một nhà thơ, chỉ khi nào người cuối cùng chết
đi, thì mới là mất đi nhà thơ cuối cùng” (Si-mon Phrớt). Mỗi người nghệ sĩ là
một thế giới riêng biệt, bí ẩn và đầỵ khám phá. Mỗi tác phẩm nghệ thuật ra đời
là sản phẩm của những quá trình chung đúc khác nhau mà ở đó người nghệ sĩ là
chủ thể sáng tạo. Bàn về vai trò của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo,
Mác-xen Prút từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Còn Tô
Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Nhận định của hai tác giả trên dù được trình
bàỵ bằng hai cách diễn đạt khác nhau nhưng đều đề cao vai trò của người nghệ sĩ
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Hiện thực đời sống được phản ánh trong văn
chương ở nhiều chiều, nhiều phương diện khác nhau. Mỗi nghệ sĩ nhìn nhận hiện
thực và xây dựng trong tác phẩm của mình những địa hạt riêng biệt và độc đáo.
Điều nàỵ phụ thuộc vào cách nhìn, vào quan điểm, vào tư tưởng, vào nhân sinh
quan của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ đến với cuộc đời, mang lại cho văn chương
một phần: Mặt riêng với những sáng tạo riêng của mình là khi ấy một lần thế
giới được tạo lập. Bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ phản ánh thế giới bằng
hình tượng nghệ thuật. Con người không chỉ là tâm điểm của cuộc sống mà còn là
đối tượng phản ánh trung tâm của văn học, mỗi giai đoạn được khám phá ở những
bình diện khác nhau, trong những mối quan hệ khác nhau. “Cuộc sống
và văn học là một đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”
(Nguyễn Minh Châu). Chính vì thế mà con người là đối tượng trung tâm của văn
học.
“Thế giới được tạo lập không phải một lần“,
mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo
lập”. Cảm quan của người nghệ sĩ; đôi mắt của người nghệ sĩ, tài năng của người
nghệ sĩ đã tạo lập trong tác phẩm của mình một thế giới quan khác nhau. “Thế
giới được tạo lập không phải một lần“. Hiện thực cuộc sống ở tác phẩm này
không bao giờ là hiện thực cuộc sống ở tác phẩm khác. Hai tác giả sẽ có hai
cách tái hiện cuộc sống khác nhau. Văn chương chân chính không có những lối mòn
và người nghệ sĩ chân chính không bao giờ đi theo con đường của người khác. “Nghệ
thuật là tự khơi lấy một dòng sông” (chữ dùng của Nam Cao). Bản chất của nghệ thuật là sự
sáng tạo. Bởi vậỵ, “mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại
một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người nghệ sĩ là thế giới khác nhau và
không thể thay thế nhà văn này bằng một nhà văn khác, nhà thơ này bằng một nhà
thơ khác. Qua các tác phẩm, bức tranh hiện thực xã hội không chỉ được tái tạo
mà còn được phản ánh sinh động, thể hiện tư tưởng, tình cảm; tài năng của người nghệ sĩ. Cái “độc đáo”
của người nghệ sĩ là sự sáng tạo, là sự riêng biệt trong cách khám phá hiện
thực và đưa hiện thực vào trang viết. Người nghệ sĩ “độc đáo” là người nghệ sĩ
có tài năng lớn. “Thế giới được tạo lập” chính là kết quả sự sáng tạo
của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ càng lớn thì “thế giới được tạo lập” trong tác
phẩm của họ càng trở nên sâu sắc và thực sự trở thành bước ngoặt vĩ đại. Như
tác phẩm của Ăng-ghen về bộ tiểu thuyết Tấn trò đời của Banzắc: Qụa ánh sáng
của Banzắc, tôi hiểu được xã hội Pháp nhiều hơn qua tác phẩm của các sử gia,
các nhà kinh tế, chính trị; các nhà thống kê thời bấy giờ gộp lại. Văn học là
một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống mà mỗi chương của nó là một tác phẩm
nghệ thuật thực sự, không có chương nào giống chương nào. Cùng viết về đề tài
người nông dân, trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan
viết về sự đói nghèo, sự bần cùng; trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố đi sâu vào nỗi
khốn cùng vì nạn sưu cao thuế nặng thì Chí Phèo của Nam Cao lại khám phá hiện
thực ở bi kịch con người bị cự tuyệt quyền làm người, phải tìm tới cái chết để
đòi sự sống. Người ta cũng nhận ra sự khác nhau của chế độ phong kiến hà khắc,
giữa làng Mùi trong A.Q chính truyện của Lỗ Tấn với làng Vũ Đại trong tác phẩm
của Nam Cao. Đó là sự khác nhau trong quá trình đày đọa con người. Qua cách
khám phá hiện thực, người ta nhận ra tư tưởng của nhà văn, nhận ra phong cách
riêng biệt, độc đáo của người nghệ sĩ. Càng nhiều sự độc đáo thì nền văn học
càng trở nên đa dạng. Văn học thế giới vẫn ca tụng một tình ỵêu bất tử giữa
chàng Rô-mê-ô và nàng Giu-li-ét của đại thi hào Sếch-xpia nhưng cũng không thể
không rung động trước tình yêu thầm lặng, cao cả trong thơ Puskin:
“Tôi yêu em âm thầm,
không hi vọng
Lúc rụt rè, khi hậm
hực lòng ghen
Tôi yêu em, yêu chân
thành đằm thắm
Cầu em được người tình
như tôi đã yêu em”
(Tôi yêu
em)
Hẳn
ta vẫn còn nhớ mãi một mối tình rụt rè, e ấp của chàng trai thôn Đoài với cô
gái thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính:
Thôn Đoài ngồi nhớ
thôn Đông
Một người chín nhớ
mười mong một người
Nắng mưa là vịệc của
giời
Tương tư là bệnh của
tôi yêu nàng
(Tương tư)
Thế giới
thiên nhiên muôn đời vẫn tuần hoàn theo bốn mùa. Nhưng các nhà thơ lại nhìn
thiên nhiên trong quan hệ bên trong với đời sống tinh thần con người – có đôi
mắt xanh non, Xuân Diệu phát hiện ra thiên nhiên mang vẻ đẹp của tình yêu, tuổi
trẻ, là thiên đường trên mặt đất. Nhưng cũng cảnh mùa xuân, Chế Lan Viên lại
thấy là vô nghĩa, chán chường, tuyệt vọng:
Tôi có chờ đâu, có
đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi
thêm sầu ?
Với tôi, tất cả nhừ
vô nghĩa
Tất cả không ngoài
nghĩa khổ đau.
(Chiều xuân)
Mỗi
nghệ sĩ có lí lẽ của riêng mình, không thể nói ai sai ai đúng, ai tầm thường ai
cao quý mà mỗi người cho ta một cách cảm nhận thế giới mới, đem đến cho người
đọc một liều thuốc giảm đau, xoa dịu con người trước hiện thực tù đọng, đều là
cách phủ định hiện thực vô nghĩa. Điều quan trọng qua những ảo ảnh đó, ta có
những cách cảm nhận về mùa xuân, thấy yêu cuộc sống.
Văn học khám phá con người một cách đa
chiều, toàn diện. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ. Nó không chỉ phản
ánh hiện thực cuộc đời, mà hơn thế; nó phản ánh cả hiện thực lòng ngựời. Mác-xen
Prút từng đề cập trong nhận định của mình. “Thế giới được tạo lập không phải
một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới
đựợc tạo lập”. Trong quá trình sáng tạo, người nghệ sĩ nhìn hiện thực cuộc sống
qua lăng kính của mình. Hiện thực của cuộc sống là yếu tố đầu tiên, yếu tố
quyết định của một tác phẩm. “Mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại
một lần thế giới được tạo lập”, hiện thực thế giới đa dạng và phong phú, bao
nhiêu hiện tượng cuộc sống nhưng người nghệ sĩ phải chưng cất hiện tượng điển
hình mang tấm phổ quát để đưa vào tác phẩm của mình.
Xét trên cơ sở này) lời nhận định của
Mác-xen Prút cũng đồng quan điểm với phát biểu của Tô Hoài. Tô Hoài cho
rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời. Cái nhìn của người
nghệ sĩ không đơn thuần chỉ là quan sát đời sống, phát hiện khám phá con người.
Ẩn sâu trong cái nhìn ấy chứa đựng hiện thực cuộc sống ở chiều đa diện. Văn học
vì con người mà có; do con người sáng tạo nên. Điều đó tưởng chừng như là một
quy luật bất biến. Nhưng, còn đó những quy luật khắc nghiệt hơn nữa. Câu chuyện
văn chương là câu chuyện “thiên cổ sự” như người xưa nói chăng? Thành ra, bàn
mãi về văn chương vẫn khôn cùng, mặc dù vẫn phải bàn mãi về văn chương!
Qua các tác phẩm của các nghệ sĩ lớn,
người đọc nhận ra những vấn đề lớn lao của thời đại mình, nhận ra những
quan điểm nhân sinh sâu sắc về cuộc sống con người. Sáng tạo nghệ thuật là một
sáng tạo tinh thần phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người nghệ sĩ. Trong văn
học người ta phân biệt tác giả này là lãng mạn, tác giả kia là hiện thực
đều phụ thuộc vào thiên hướng của nhà văn, phụ thuộc vào sự lựa chọn của
họ. Như vậy, trong nghệ thuật và lựa chọn khuynh hướng, thể loại; thi
pháp; cảm hứng bao giờ cũng do chủ quan người nghệ sĩ quyết định. Người nghệ sĩ
luôn là chủ thể sáng tạo và hiện thực cuộc sống là yếu tố đầu tiên thể hiện
phẩm chất của chủ thể ấy. Vũ Trọng Phụng trong bài phản hồi bài báo Dâm hay không dâm đã phát biểu: “Các ông quen
nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trung, hi sinh cho ái tình
hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô
học, chẳng có gì thi vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi
trùng trong người nữa… Các ông có thể coi phong trào khiêu vũ là dấu hiệu tiến
hóa mà các ông chủ trương. Riêng tôi; tôi chỉ thấy đó là một cách dâm bôn cho
tăng số gái giang hồ, một tai họa cho nước nhà”. Chính xuất phát từ cách nhìn
về hiện thực cuộc sống khác nhau mà cùng viết về đề tài người phụ nữ, trong khi
Nhất Linh của Tự lực văn đoàn xây dựng trong Đoạn tuyệt một cô Linh can đảm
chống lại sự hà khắc của chế độ phong kiến tồn tại ở gia đình nhà chồng thì Vũ
Trọng Phụng lại miêu tả trong Số đỏ một thằng Xuân Tóc Đỏ ma lanh, lố bịch, dốt
nát và kệch cỡm. Hiện thực cuộc sống cùng với con mắt khác nhau đã hình thành
nên những người nghệ sĩ khác nhau hướng ngòi bút của họ tới những đối tượng,
những đề tài khác nhau nhưng trên “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra
đời”. Như vậy, cái quan trọng không phải là anh viết về cái gì mà quan trọng
hơn là anh viết như thế nào, anh viết để làm gì. Bởi cách anh sáng tạo nghệ
thuật mới thể hiện tư tưởng của anh hướng tới hiện thực và hướng vào người đọc
một tư tưởng nhân văn. Có người nghệ sĩ viết về cái tốt để ca ngợi cái tốt
nhưng cũng có người nghệ sĩ muốn ca ngợi cái tốt lại viết về cái xấu, nói cái
xấu để phê phán, để căm ghét và khơi gợi trong lòng người sự hướng tới cái tốt
đẹp hơn. Tất cả đều phụ thuộc vào đối mắt của người nghệ sĩ. Nếu nói đôi mắt là
cửa sổ tâm hồn con người thì đôi mắt của người nghệ sĩ là cửa sổ tâm hồn của
tác phẩm. Tư tưởng của họ, nhân sinh quan của họ được soi chiếu trong đó. Bởi,
qua “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
“Không có câu chuyện cổ tích nào
đẹp hơn câu chuyện cổ tích do chính cuộc sống viết ra”
(An-đéc-xen). Không có tác phẩm văn học nào lại không là sản phẩm của cuộc sống
hiện thực và đẹp hơn nhờ cuộc sống hiện thực. Và cũng không có gì thay thế được
văn học khi phản ánh những giá trị cao cả của con người và cuộc đời. Một tác
phẩm văn học có đứng vững trong lòng người hay không chính là nhờ tài năng và
phẩm chất của người nghệ sĩ. Phải qua bàn tay nhào nặn của nhà văn, mỗi tác
phẩm mới thực sự “soi bóng thời đại”. Viết vể hình ảnh người nông dân Kim Lân
tìm đến với những người nông dân nơi xóm ngụ cư nghèo khổ – nạn nhân của nạn
đói năm 1945. Câu chuyện mở ra tình huống có phần kì lạ: Anh Tràng nhặt được
vợ. Dân gian xưa và nay vẫn quan niệm chuyện cưới xin là câu chuyện trăm năm,
trang trọng thiêng liêng, nhưng ở đâỵ không có một đám rước dâu nào, không sính
lễ, tặng vật, con người đã đến với nhau giữa cái khốc liệt của những ngày dài
đói kém. Song điều đặc biệt ở chỗ Kim Lân đã không khai thác hiện thực thê thảm
của nạn đói, nghịch cảnh mà rất dễ dẫn con người ta đến sự tha hóa về nhân phẩm
vì miếng ăn. Ông đã khai thác chủ đề này ở phương diện tình thương, từ nghèo
khổ, ánh sáng của tình người đã được thắp sáng. Khác với những lời lo âu bàn
tán giữa cảnh này mà lại còn đèo bòng, giữa cái nhìn lo lắng; băn khoăn của bà
cụ Tứ, anh Tràng thấy “phớn phở” lạ thường. Hắn đi cạnh người phụ nữ kế bên
trong niềm sung sướng, hãnh diện. Tâm trạng của Tràng có sự chuyển biến đặc sắc
từ hình ảnh một anh cu Tràng xấu xí dở hơi thành một người đàn ông có vợ, nói
năng như tình tứ hơn, dí dỏm hơn. “Có một cái gì lạ lắm như chưa bao giờ có ở
người đàn ông nghèo khổ ấy, một cái gì ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ
như có một bàn tay vuốt nhẹ lên sống lưng”. Mọi sự như đều đổi thay trước mắt
Tràng, tình yêu thương khiến anh quên đi mọi khổ đau, hiện thực cám cảnh đẩy ra
trước mắt, anh như sống trong một thế giới khác, thế giới êm ái lạ lùng; mênh
manh như lơ lửng ở một tầng không nào đó. Từ một tình huống độc đáo hứa hẹn
những chi tiết thú vị hấp dẫn, song câu chuỵện Ịại lắng trong lòng ta hơi ấm
của cuộc sống, sức mạnh của tình yêu thương làm cuộc sống hồi sinh. Vậy là đâu
cần những trang tiểu thuyết dày dặn bề bộn, đâu cần những vần thơ ngân nga sâu
lắng; triết lí nhân sinh trong từng trang truyện ngắn vẫn dần thấm sâu vào tâm hồn
ta như thứ thuốc bắc càng ngấm càng ngọt.
Mỗi người nghệ sĩ xây dựng trong tâm
hồn của mình, trong tác phẩm của mình một thế giới tình ái riêng biệt; không
thể so sánh. “Thơ mở ra một cái gì đó mà trước nhà thơ đó,
trước câu thơ đó còn bị phong kín” (Nguyễn Tuân). Sức sáng tạo của
con người là vô hạn. Bởi vậy, “thế giới được tạo lập không phải một lần” mà rất
nhiều lần. Mỗi lần “thế giới được tạo lập” là một lần ta phát hiện thêm những
điều mới mẻ về hiện thực cuộc sống. Cái thần của sáng tạo chính là cũng ở người
ấy, việc ấỵ, cảnh ấy, ngòi bút người nghệ sĩ đã tìm ra những dáng vẻ riêng biệt
trong khi ta trễ nải nhác qua, chẳng thấy khơi gợi được điều gì. Nhận định của
Mác-xen Prút đã đề cao vai trò sáng tạo của người nghệ sĩ trong quá trình sáng
tác. Cùng với nhận định của Tô Hoài, nó đặt ra yêu cầu về thiên chức của người
nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo. Người nghệ sĩ phải có khả năng quan sát tinh
tường, phải dấn thân nhập cuộc và cố tìm hiểu để khám phá hiện thực và phản ánh
một cách chân thực/khách quan vào trong tác phẩm để qua “mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Nhưng sự phản ánh đó không bao giờ được bắt chước,
được lặp lại. “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay làm theo một vài
kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có” (Nam Cao).
Nghệ thuật phải góp phần cải tạo xã hội. Sáng tạo theo nghĩa đẹp nhất của nó là
khám phá ra cái mới, cái lớn, cái đẹp của chính cuộc sống, thời đại, của thế
giới tình cảm con người. Người nghệ sĩ chân chính phải sáng tạo nên được thế
giới mới và “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá mới về
nội dung” (Lêônit Lêônôp). Nghệ thuật chân chính không phải là sự hời hợt, giản
đơn với đời sống. Nó phải là sự gắn kết chặt chẽ với cuộc đời, Nó đòi hỏi người
cầm bút phải có một sự trải nghiệm, thấm thía sâu sắc về cuộc sống và con
người. Người cầm bút phải biết lấy chữ của đời, cần cù sáng tạo tích cóp làm
nên văn chương nghệ thuật soi bóng thời đại:
Vạt áo của triệu nhà
thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt những chữ
của đời mà góp nên trang.
(Chế Lan Viên)
Muốn
thế, bàn viết của người cầm bút phải đặt giữa cuộc đời. Người nghệ sĩ phải trải
lòng ra với cuộc đời“sống rồi hãy viết” biết chắt lọc, tích lũy vốn sống từ
hiện thực để viết nên trang.
“Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại”
không chỉ cần đôi mắt hiện thực mà còn cần có đôi mắt tình thương. Mỗi tác phẩm
viết ra phải là một bài ca về lòng thương, lòng nhân đạo, phải có “khả năng cải
tạo con người, thanh lọc tình cảm” (chữ dùng của Ari-xtốt) và hướng con người
tới những gì là cao đẹp. Tiếng gọi của lương tâm và lòng tin ở tương lai không
cho phép những nhà văn chân chính sống trên trái đất như một bông hoa điếc và không
truyền đạt cho người khác một cách hào phóng nhất tất cả cái phong phú của tư
tưởng và tình cảm tràn ngập trong chính tâm hồn nhà văn. Vấn đề “tạo lập thế
giới độc đáo” của Mác-xen Prút và yêu cầu “soi bóng thời đại” của Tô Hoài đã
trở thành những yêu cầu của văn học muôn đời.
Văn chương chân chính phải khiến cho
người ta thấy những gì cao đẹp trong cái vi mô nhỏ bé, người ta phải ngưỡng mộ
thán phục những gì bắt nguồn từ ngay chính bên ta. Cuộc sống vẫn tiếp nối, ngày
nối ngày và thời gian chảy trôi như một dòng sông không bao giờ quay lại song
văn học lưu giữ được những gì đẹp nhất trên mỗi dòng nước tưởng chừng vô hạn
ấy. Cuộc sống đã trôi chảy vào con tim của người nghệ sĩ trở thành những vết
khắc trong tim để trên mỗi trang văn là những khám phá độc đáo để soi bóng thời
đại.
Trong văn học không thể có những nông
trang tập thể. Mỗi nghệ sĩ cần có riêng cánh đồng và có riêng thửa ruộng của
mình. Cánh đồng đó, thửa ruộng đó là thế giới riêng của mỗi người nghệ sĩ.
Những thửa ruộng đó tạo nên bộ mặt của cánh đồng văn học nhân loại và đòi hỏi
những thế hệ mai sau phải cày xới và chăm bón.
Triệu Cẩm Quyên
THPT Việt Đức – Hà
Nội, Bài đoạt giải Nhất -18/20 điểm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét