PHẦN ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi:
CHUYỆN VỀ BỐN CÂY NẾN
Trong một căn phòng, không gian
tĩnh lặng tới mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến.
Cây nến thứ nhất than vãn: “Ta
là biểu tượng của Hòa Bình. Thế nhưng đời nay những cái đó thật chông
chênh. Thế giới hiếm khi im tiếng gươm súng, người với người – thậm chí vợ
chồng anh em trong một nhà cũng chẳng mấy khi không cãi cọ”. Thế rồi ngọn nến
leo lét, ngọn lửa mờ dần cho tới khi ánh sáng lụi tắt hoàn toàn.
Ngọn
nến thứ hai vừa lắc vừa kể lể: ”Ta là Niềm Tin. Thế nhưng trong thế giới
này hình như ta trở nên thừa thãi, một món xa xỉ. Biết bao kẻ sống theo thời
không cần tới niềm tin”. Nói rồi ngọn nến từ từ, tắt tỏa ra một làn khói trắng
luyến tiếc.
”Ta là Tình
Yêu – ngọn nến thứ ba nói – Nhưng ta không còn đủ sức để tỏa sáng nữa.
Người ta gạt ta ra một bên và không thèm hiểu giá trị của ta. Cứ nhìn thế giới
mà xem, không thiếu kẻ quên luôn cả tình yêu đối với những người ruột thịt của
mình”. Dứt lời phẫn nộ, ngọn nến vụt tắt.
Căn phòng trở nên tối tăm. Chỉ
còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, như ngôi sao đơn
độc giữa bầu trời đêm âm u. Bất chợt một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến
bị tắt, cô bé thốt lên: ”Tại sao các bạn không cháy nữa? Cuộc sống này luôn cần
các bạn. Hòa Bình, Niềm Tin, Tình Yêu phải luôn tỏa sáng chứ”.
Cây
nến thứ tư nãy giờ vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng, đáp lời cô gái: ”Đừng lo.
Tôi là Hy Vọng. Nếu tôi còn cháy, dù ngọn lửa rất mong manh, chúng ta vẫn có
thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu”. Mắt cô bé sáng lên. Cô bé
dùng cây nến thứ tư – Hy Vọng – thắp sáng trở lại các cây nến khác.
( Theo www.phapluatplus.vn)
Câu 1: Vì sao ba ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin, Tình Yêu tự
vụt tắt? (1,0 đ)
Câu 2: Văn bản chủ yếu sử dụng pháp tu từ nào ?Hiệu quả biểu đạt của phép tu từ này là gì? (1,5 đ)
Câu 3: Vì sao cây nến thứ tư được đặt tên là
Hy Vọng? (1,5 đ)
Câu 4: Thông điệp sâu sắc của em từ câu
chuyện trên? Lí giải? (2,0 đ)
14.
PHẦN
LÀM VĂN: (14.0 điểm)
Câu 1: (4.0 điểm)
“Người vá trời lấp bể
Kẻ đắp lũy xây thành
Ta chỉ là chiếc lá
Việc của mình là xanh”.
( Lá xanh– Nguyễn Sĩ Đại)
Trình bày suy nghĩ của anh
(chị) về quan điểm của tác giả trong bài thơ trên.
Câu 2: (10.0 điểm)
Nhận định về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ
ca là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm ” (Vôn
– te)
Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến trên?
Bằng việc cảm nhận bài thơ Tự tình II ( Hồ Xuân Hương)
và liên hệ bài Đọc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du) hãy
làm sáng tỏ. Từ đó bàn luận về đặc trưng cơ bản của thơ ca.
-HẾT-Giám thị không giải thích gì thêm-
SỞ GD &ĐT THANH
HÓA ĐÁP ÁN ĐỀ THI
HỌC SINH GIỎI CẤP TRƯỜNG
TRƯỜNG THPT VĨNH
LỘC
MÔN: NGỮ VĂN
Năm
học 2018-2019
Thời gian làm bài: 180
phút
(Đáp án gồm có 4 trang)
Câu
|
Nội
dung
|
Điểm
|
|
Đọc
hiểu
|
1.
|
Ba
ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin, Tình Yêu tự vụt tắt vì cả
ba sống không có niềm tin, không có hy vọng, tình yêu, luôn sống trong sự bi
quan, chán nản. Cả ba vụt tắt là điểm tất yếu
|
1,0
|
2.
|
Biện
pháp tu từ: Nhân hóa
Hiệu quả: Câu chuyện về bốn cây nến
cũng là câu chuyện về con người và thế giới xung quanh, về cách con người lựa
chọn cuộc sống, đó là một cuộc sống luôn cần có hoà bình, tình yêu,
niềm tin và hy vọng. Phép tu từ nhân hóa khiến câu chuyện về cuộc sống của
con người thêm sinh động, cụ thể, dễ hiểu, dễ cảm nhận hơn.
|
0, 5
1,0
|
|
3.
|
Cây
nến được đặt tên là Hy Vọng vì nó luôn luôn tin tưởng vào cuộc sống và luôn
mong chờ điều tốt đẹp sẽ đến, vẫn lặng lẽ cháy “dù ngọn lửa rất mong manh,
chúng ta vẫn có thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu”
|
1,5
|
|
4.
|
Thông
điệp: HS lựa chọn một thông điệp sâu sắc nhất và lý giải sự lựa chọn
sao cho phù hợp, thuyết phục
|
2,0
|
|
NLXH
|
I.Yêu
cầu về kĩ năng:
Đảm bảo bố cục một bài văn nghị luận xã hội
với dung lượng khoảng 400 chữ, diễn đạt rõ ràng trong sáng, ít mắc lỗi chính
tả, dùng từ, đặt câu.
II.Yêu cầu về nội dung:
1. Giải thích:
– Người vá trời lấp bể, kẻ đắp lũy xây thành:
Chỉ ước muốn to lớn, phi thường của con người.
– Chỉ là chiếc lá: Sự tự ý thức
về sự nhỏ bé, khiêm nhường đúng mực về mình của ta
– Xanh: chỉ cách sống có ích, có nghĩa
=> Hai hình ảnh đối lập giữa người và ta trong
bài thơ nêu lên quan điểm sống của chính tác giả: Mỗi người đều có ước mơ
riêng cho mình, có người ước mơ lớn lao kì vĩ, còn có người chỉ bình dị, bé
nhỏ. Và dù chỉ là cá thể nhỏ bé, không có những ước mơ to lớn thì cũng cần ý
thức được ý nghĩa của sự sống của mình trong cuộc đời là: lẽ sống cống hiến
2. Bàn luận, mở rộng vấn đề:
– Trong cuộc sống ai cũng có mơ ước riêng cho
mình . Có ước mơ lớn lao, khát vọng kì vĩ. Nhưng có người chỉ mơ ước bình dị
thiết thực, không ồn ào, huyễn hoặc, ảo tưởng về mình về mình. Đó là do cá
nhân đã tự ý thức về cá nhân một cách đúng đắn, tích cực về bổn phận trách
nhiệm của cá nhân mình
– Ý thức về cá nhân một cách đúng đắn, tích
cực về bổn phận trách nhiệm của cá nhân mình khiến con người sống đúng thực
tế, không ảo tưởng về bản thân, không mơ ước xa vời, phù phiếm. Đây là biểu
hiện của sự từ tốn ngay từ ước mơ: không qua lớn lao ngoài năng lực của bản
thân, dù nhỏ bé nhưng không vô nghĩa
– Nhưng dù là thế nào, là người làm nen
những điều lớn lao hay chỉ là những cá nhân bình thường khuất lấp cũng cần ý
thức được sống là cống hiến dù nổi bật hay lặng thầm, sống có nghĩa bằng
chính những hành động có ích cho đời như chiếc lá phải xanh, con chim phải
hót để tô đẹp cho đời. Ý thức đó giúp con người sống đúng nghĩa, sống
đẹp với bản thân và cộng đồng.
– Tuy nhiên có những cá nhân tự huyễn hoặc
về mình, tự cao cho mình làm nên những điều to lớn nhưng lại chỉ là sự
trống trống rỗng, vô duyên.Lại có những cá nhân tự ti tự cho mình là chiếc lá
nhỏ bé mà chẳng cần phấn đấu, đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé hơn. Những biểu hiện
này đáng bị phê phán
3. Bài học nhận thức và hành động:
– Dù là ai trong cuộc đời cũng cần phải
biết tự ý thức về bản thân. Chẳng có ai tầm thường vô nghĩa chỉ có người tự
mình cho mình là vô nghĩa mà thôi
– Hãy là việc, hãy sống có ích bằng chính
những việc làm nhỏ bé của mình, biết nuôi dưỡng và phấn đáu thực hiện
ước mơ của mình
|
0,2 5
0,75
2,5
0,5
|
|
NLVH
|
I. I.Yêu
cầu về kĩ năng:
Bài viết đảm bảo một bài văn nghị luận văn
học có bố cục rõ ràng, hợp lí, tổ chức sắp xếp ý một cách mạch lạc, logic
chặt chẽ. Hành văn trong sáng, trình bày rõ ràng, sạch đẹp, không mắc
quá nhiều lỗi chính tả, lỗi diễn đạt.
II. Yêu cầu về kiến thức:
1. Giải thích, cắt nghĩa ý kiến:
–Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn: Thơ ca là nơi
kết tinh những giai điệu cảm xúc của tâm hồn nhà thơ.
–Những tâm hồn cao cả, đa cảm: tâm
hồn giàu cảm xúc, giàu lòng trắc ẩn, rung động
=> Nhận định đã khẳng định vai trò
then chốt của cảm xúc và nhất là một tâm hồn nhạy cảm, một tấm lòng sâu nặng
với đời sống. Đây là âm điệu làm nên sức hấp dẫn của thơ.
2. Chứng minh:
a. Tác phẩm Tự tình II
– Vài nét về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ
– Âm nhạc của tâm hồn hồn cao cả, đa cảm:
+ Cảm nhận nỗi cô đơn trống trải, tủi hổ,
bẽ bàng của một cái tôi trước thời gian gợi cảm, không gian vắng lặng
+ Xót xa cho duyên phận muộn màng như vầng
trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
+ Nỗi bất bình phản kháng nhưng cuối cùng
đọng lại là nỗi lòng tuyệt vọng đớn đau cho tình duyên dang dở, bị san sẻ.
– Đánh giá: Ngôn ngữ thơ giàu hình
ảnh, hàm xúc, cô đọng…biểu đạt chân thực truyền cảm tâm hồn cao cả đa cảm của
nữ sĩ.
b. Liên hệ tác phẩm Đọc Tiểu Thanh kí
– Vài nét về tác giả Nguyễn Du và bài thơ
– Âm nhạc của tâm hồn hồn cao cả, đa cảm:
+ Niềm xót xa thương cảm cho cuộc
đời, số phận của nàng Tiểu Thanh, kẻ hồng nhan bạc phận
+ Thương cho chính bản thân mình, cho những
người có tài hoa mệnh bạc.Đó cũng là nỗi niềm bất lực của tác giả trước
những bất công ngang trái của cuộc đời.
+ Khao khát tấm lòng dồng cảm sẻ chia, tri
kỉ tri âm.
– Đánh giá: Thơ chữ Hán hàm xúc, cô
đọng…biểu đạt chân thực truyền cảm tâm hồn cao cả đa cảm nỗi lòng của người
nghệ sĩ.
3. Bàn luận:
– Cả hai bài thơ dù là tiếng nói trữ tình
của riêng cá nhân hay nỗi niềm đồng cảm với nỗi đau khổ của con người thì đều
cho người đọc thấy được tâm hồn đẹp, tinh tế và tài hoa có tầm tư tưởng
sâu sắc trước cuộc đời của hai tác giả. Đó là giá trị nhân văn, là đặc trưng
cơ bản về nội dung tình cảm của thơ ca.
-Thơ ra đời từ những xúc cảm thẩm mĩ
phong phú, mãnh liệt của người làm thơ trước cái đẹp muôn màu, trước
muôn vàn trạng thái, cảnh ngộ gợi trăn trở, suy tư từ cuộc sống.Thơ luôn gắn
với chiều sâu nội tâm Đối tượng của thơ là thế giới tâm hồn, tình cảm của con
người. Những cảm xúc, rung động, những suy tư, trăn trở… đều có thể trở thành
đối tượng khám phá và thể hiện của thơ.
– Với người làm thơ, bài thơ là phương tiện
biểu đạt tình cảm, tư tưởng. Chỉ có cảm xúc chân thành, mãnh liệt mới là cơ
sở cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Cảm xúc càng mãnh liệt,
càng thăng hoa thì thơ càng có nhiều khả năng chinh phục, ám ảnh trái tim
người đọc.
-Với người đọc thơ, đến với bài thơ là để
trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và kiếm tìm sự tri âm. Do vậy, khi tìm
đến một tác phẩm thơ, người đọc quan tâm nhiều tới cảm xúc, tới tình cảm mà
nhà thơ kí thác.Tâm hồn nhà thơ chân chính luôn nhạy cảm của trước mọi vẻ đẹp
của đời sống sẽ dẫn lối người đọc đến xứ sở của những đắm say và thái độ nâng
niu cái đẹp. Người nghệ sĩ ấy cũng luôn trĩu nặng suy tư trước nỗi đau và
khát vọng của con người, trước vận mệnh dân tộc sẽ mang đến cho thơ không chỉ
xúc cảm tha thiết mà còn cả một chiều sâu tư tưởng thấm thía thanh lọc con
người.
– Song, để sức lay động của câu thơ được
thực sự chắp cánh bay cao cũng rất cần đến tài năng sáng tạo của người nghệ
sĩ
– Ngôn ngữ thơ đã giúp những cung bậc cảm
xúc ấy ngân lên trên trang thơ thành những giai điệu phong phú, cuốn hút và
chinh phục lòng người mang theo sức sông tâm hồn của mỗi nhà thơ.
4. Đánh giá chung:
– Ý kiến xác đáng, có ý nghĩa lí luận mở ra
những bài học trong sáng tác và tiếp nhận:
+ Với người sáng tác cần chú ý tới tính
thẩm mĩ, vẻ đẹp phong phú, độc đáo của thơ. Muốn vậy nhà văn cần có một tâm
hồn đẹp, tinh tế và tài hoa và có tầm tư tưởng sâu sắc trước cuộc đời
+ Với người tiếp nhận: Đây là một tiêu chí
quan trọng gợi ý cho chúng ta cảm nhận và đánh giá thơ ca…
|
0.5
1,0
4,0
1,5đ
2,0đ
1,0
|
Lưu ý: Tôn trọng những bài viết sáng
tạo mà vẫn đảm bảo yêu cầu cơ bản của hướng dẫn chấm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét