ĐIỀU BÌNH THƯỜNG
Mình bệnh, mẹ về nấu cháo. Mình đang dạy trong lớp mẹ nhắn tin: “Hôm nay mẹ nấu cơm, con nhớ về ăn nhé”. Cứ lúc nào mẹ nhắn như thế, tức là sẽ có những món mình rất thích ăn. Mình bảo con khó thở, giờ đi viện nào thì ổn? Mẹ mình lại chạy ngay đến viện xem mình thế nào, ghé lại 10 phút thấy ổn rồi lại đi.
Nếu là 2,3 năm trước, mình sẽ thấy đây là những điều bình thường. Mọi sự sẽ qua đi trong tâm trí chỉ sau vài phút. Nhưng bây giờ thì mình nghĩ khác. Những điều bình thường trong cuộc đời này quý giá vô cùng, bởi đơn giản ngay cả những điều bình thường cũng không còn lại mãi.
Trong cơn đau đớn cùng cực, học trò mình bật khóc nghẹn ngào: “Con không dám khóc. Con sợ con khóc rồi mẹ con sẽ gục ngã”. Có người bạn từng ôm mình mà bảo rằng: Tao chỉ ước một bữa cơm có đủ ba và má. Mình chỉ biết im lặng mà nghe nỗi đau của họ rơi khuất vào chỗ không lời. Những cảnh tượng bình thường, những ước mơ bình thường sao có những khi mong manh quý giá quá.
Mình nghĩ con người mù quáng và cũng thật đáng thương. Ta đi hoang đốt lửa ném lên trời để tìm cái gì kì vĩ xa xôi, mà đâu hay cái quý nhất mình đã nắm trong tay rồi mà không biết. Cái quý nhất – mất đi rồi mới thấy quý. Mà mất rồi, tìm đâu?
Tuổi trẻ của mình là những tháng ngày kiếm tìm ảo vọng lộng lẫy. Muốn mình là số một. Theo đuổi lý tưởng vá trời. Muốn nắm lấy hạnh phúc như nắm lấy mặt trời. Muốn tình yêu là bất tuyệt. Tuổi trẻ của mình đắm chìm trong ảo vọng, chạy theo điều này điều khác, cất giữ trong tim người này người kia. Tất cả thật lộng lẫy. Lỗng lẫy như một phút giây sáng rực mà toàn bộ ý nghĩa sự sống dồn nén trong khoảnh khắc ấy. Khao khát được chú ý, khao khát được ghi nhận, khao khát đứng trong ánh sáng và khao khát tỏa sáng.
Nhưng rồi, khi tất cả mọi ảo vọng và mọi ánh sáng rực rỡ vụt tắt như một giấc mơ, mình nhận ra điều quý giá nhất giữa cuộc đời này là những điều bình thường.
Bình thường như một gia đình hàng ngày ta trở về, có một bữa cơm ngon để ăn, có những người quan tâm lo lắng yêu thương ta hằng ngày. Bình thường như một công việc ta làm hằng ngày, góp nhặt từng chút để tìm thấy chính mình. Bình thường như mỗi sớm mai bình minh ghé qua khung cửa sổ, ta sửa soạn và lại bước vào dòng chảy những mặt người hối hả bước đi.
Một chút bình thường ấy thôi, từ khi sinh ra ngày nào chẳng có, bình thường đến nỗi ta xem nghiễm nhiên như không khí như nước chảy, bình thường đến nỗi ta không còn biết coi trọng.
Mẹ của học trò gặp mình nói trong nước mắt rưng rưng: "Con mình có ngã đau thì cũng chỉ có mình giang tay mà ôm lấy nó, mẹ biết con mẹ gục ngã thì khó lòng mà đứng dậy. Nhưng mẹ có ở mãi bên con để mà ôm con được đâu..."
Sẽ thế nào nếu một ngày rã rời sau bao phong sương cuộc đời, ta trở căn nhà quen thuộc: Nhưng ở đó không có mẹ đang nấu cho ta ăn, không có cha ngồi xem vô tuyến. Sẽ thế nào nếu một ngày ta bước vào căn phòng của riêng mình - căn phòng đầy những huân chương lấp lánh, nhưng không còn ai để ta khoe về những điều đó, không còn ai nhìn ta bằng ánh mắt tự hào, không còn ai ôm ta vào lòng hay vỗ vai ta động viên khích lệ. Sẽ thế nào, nếu trong cơn đau đớn tột cùng ta không còn một nơi để trở về, không còn những vòng tay yêu thương để ta gục vào mà khóc?
Sẽ thế nào nếu ngày đó xảy ra, em ơi? Xét đến cùng, mẹ cha đâu còn mãi bên ta?
Kể từ khi bước vào nghề, nghề dạy mình rất nhiều. Mình được gặp gỡ nhiều số phận, mình được nghe nhiều câu chuyện. Mình được học bài học về sự mất mát và về những nỗi đau.
Mình được học bài học tưởng như bình dị vậy mà đến năm 24 tuổi mới thực sự hiểu rõ – bài học về việc biết quý trọng.
Hình như vấn đề của con người thế kỉ XXI là ở chỗ họ không biết quý trọng? Quá nhiều thứ hào nhoáng, quá nhiều thứ lộng lẫy, quá nhiều mộng tưởng, quá nhiều hình ảnh, ánh sáng, và những thanh âm náo động khiến ta không còn biết điều gì thật sự đáng giá và điều gì cần phải quý trọng. Nhưng ta sẽ chạy theo hào quang ấy đến bao giờ, biết bao nhiêu cho đủ? Và rồi dù ở đỉnh cao ánh sáng nơi mọi người nhìn ta như một vị thần, có ý nghĩa gì không khi rút về sau cánh gà, ta loanh quanh chỉ còn mình ta?
Khi xưa vua Solomon đắc thắng cầm chiếc nhẫn trên tay nở nụ cười mãn nguyện, để rồi sững người khi nhìn thấy dòng chữ “Điều này rồi cũng sẽ qua đi”. Nụ cười trên môi vua tắt lịm, vua nhận ra quyền thế, niềm hạnh phúc, trí tuệ ngai vàng và cả chính sinh mệnh này nữa, rồi cũng sẽ theo chân vua đi về cát bụi.
“Điều này rồi cũng sẽ qua đi” – hay như một thành ngữ Latin “Memento Mori” - “Hãy nhớ rằng người sẽ phải chết”. Ta không còn mãi trên đời, không có đủ thời gian để phúng phí cho những ảo mộng xa vời… Hãy nhớ em ơi, ngay cả những điều bình thường cũng không còn mãi bên ta…
TRẦN LÊ DUY
MS297 – Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát
VĂN MẪU LỚP 12 JULY 27, 2019
Đề bài: “Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung” (Nguyễn Khải)
Anh (chị) hãy bàn luận về ý kiến trên.
Bài làm
Ai đã trót mê đắm văn chương, đặc biệt là văn học Nga, chắc hẳn sẽ một lần đọc qua tuyệt tác “Anna Karenina” của nhà văn Lev Tolstoy. Và có hay chăng, ta sẽ trách Tolstoy quá tàn nhẫn với Anna khi bắt nàng lao vào gầm xe lửa? Thế nhưng, càng ngẫm nghĩ kỹ, ta sẽ nhận ra cái chết của Anna dẫu rất đỗi bi thương, dẫu lột tả bức tranh thời đại vô cùng u ám, tối tăm nhưng vẫn tỏa ra một thứ ánh sáng rực rỡ của trái tim yêu mãnh liệt, thứ ánh sang lung linh từ tâm hồn. Phải chăng, đó là một quy luật của nghệ thuật chân chính, cái mà văn học hướng tới vẫn là cái đẹp, cái cao cả? Xét về vấn đề này, nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định: “Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”
Mọi vật chất tồn tại đều có ý nghĩa của nó, và văn chương cũng vậy. Cùng phản ánh về cuộc đời, về con người, vậy đâu là sự khác biệt giữa văn học với lịch sử hay triết học khi văn học luôn phải gắn liền với dòng chảy thời gian và đỉnh cao của nó là đưa ra một triết lí nhân sinh? Nhưng văn học vẫn có một đặc điểm riêng biệt, đó là phản ánh con người trên phương diện thẩm mỹ. Nhà văn Nga Dovtoepxki từng nói: “Cái đẹp cứu chuộc thế giới”. Sự khu biệt rõ ràng nhất giữa văn học và lịch sử, triết học chính là nhìn nhận cuộc sống trên phương diện của cái đẹp. Lịch sử loại trừ cái nhìn chủ quan, triết học chỉ quan tâm đến những vấn đề cốt lõi, còn văn học, sự phản ánh nhất thiết phải gắn với cái đẹp. Ngay cả khi miêu tả những thứ xấu xa, giả dối thì văn học vẫn đi theo kim chỉ nam mang tên cái đẹp, mục đích cuối cùng và cốt lõi của văn học vẫn là hướng con người đến cái đẹp, đến những giá trị chân thiện, mỹ. Văn học không thể không phản ánh cái xấu xa, giả dối, nhưng mục đích vẫn là hướng bạn đọc tới cái đẹp, để ta biết thêm trân trọng, yêu quý những giá trị cao thượng. Đã hoàn toàn chính xác khi nhà văn Nguyễn Khải nhận định: “Văn chương có quyền nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”
Trước hết, có lẽ Nguyễn Khải muốn khẳng định cái “quyền” được nói về “cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát” mà cho đến nay đâu phải nhà văn nào cũng dám nói. Đã có lúc ta quan niệm rằng văn chương chỉ được quyền miêu tả những điều tốt đẹp, cao cả trong cuộc sống. Đã có lúc ta cho rằng tác phẩm viết về những điều bất nhân, giả dối là vết dơ và điều đó đáng bị đào thải. Phải chăng quan điểm có tính chất ấu trĩ ấy bắt nguồn từ việc hiểu con người không thật đầy đủ, thấu đáo? Nghệ thuật là tấm kính khúc xạ mọi hình ảnh của cuộc đời, của thời đại, vậy thử hỏi, tại sao hiện thực tồn tại những điều xấu xa, tồi tệ còn văn chương lại không? Nhà văn Nga Secnuepski từng khẳng định: “Ngoài việc tái hiện đời sống, nghệ thuật còn có chức năng khác là thuyết minh cuộc sống”, thật vậy, văn học buộc phải cho con người có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về bộ mặt cuộc đời, vậy nên không thể loại bỏ những điều giả dối, xấu xa khỏi ngòi bút. Nhiều người cho rằng việc ngó lơ cái xấu chính là cách thức nhân đạo hóa con người, nhưng liệu điều đó có khiến con người tốt hơn không, hay nó sẽ làm cho ta ảo tưởng về cuộc sống, để rồi đến một lúc ta sẽ rơi vào hố sâu tuyệt vọng vì vỡ mộng? Nhà phê bình Belinski đã nói: “Khi cảm nhận cái xấu, con người trở nên cao hơn cái xấu và hướng tới cái tốt, cái đẹp”, vậy nên, muốn khiến con người tốt hơn, văn chương trước hết phải giúp họ nhận thức và tự nhận thức.
Nhà văn người Trung Quốc Lỗ Tấn đã không ngần ngại vạch trần những điều giả dối và vô lý đến nỗi “Cụ cố Triệu tát cho A.Q một cái vào mặt thì nhất định A.Q là người có lỗi rồi, không cần bàn cãi” hay chỉ ra một thói tật, một căn bệnh của sự hão huyền mang tên “phép thắng lợi tinh thần”. Hay như “ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng với tác phẩm “Số đỏ” như bức chân dung biếm họa đã lên án cái kệch cỡm, cái xấu xa của con người trong cái thời đại mà giá trị đạo đức bị xem rẻ. Rồi Victor Hugo với kiệt tác “Những người khốn khổ” của mình lên án xã hội tư sản Pháp đã đầu độc cuộc sống con người, đã phủ lên nước Pháp phồn hoa tươi đẹp một mảng màu đầy tăm tối, đã làm cho những em bé như Cossette chịu đày đọa từ trong bụng mẹ, làm cho những cô gái xinh đẹp như Fantine từ bỏ cuộc đời trẻ trung của mình, làm cho Jean Valjean phải trở thành con người khốn khổ nhất trong những người khốn khổ. Văn học không nên tránh né, nó có “quyền” miêu tả những “cái xấu xa, cái ghê tởm, cái hèn nhát”, và thông qua đó, sẽ giúp bạn đọc có nhận thức đúng đắn về cuộc sống, khơi lên ở con người “ý thức phản kháng cái ác, khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp” (Aimaitop)
Nhà phê bình người Nga Belinski đã nhận xét: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật”. Vậy, cái đẹp, cái cao cả là những giá trị tất yếu trong quá trình phản ánh cuộc sống của văn chương. Từ thời Hy Lạp-La Mã cổ đại, đã có rất nhiều nhà triết học đã đưa ra vô số quan niệm về cái đẹp, hay còn gọi là phạm trù mỹ học. Arixtot cho rằng nghệ thuật mô phỏng tự nhiên và con người có khoái cảm khi ngắm nhìn nghệ thuật, hay nói cách khác, “cái đẹp mà văn học đem lại không phải cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật” (Hà Minh Đức). Khi cảm thụ, chiêm ngưỡng những hiện tượng đẹp đẽ của tự nhiên, văn học luôn tác động vào tâm hồn con người những phản ứng, cảm xúc mãnh liệt, làm con người hân hoan, sung sướng, khơi dậy những khoái cảm trước cuộc đời. Và hơn thế, văn chương nghệ thuật là lĩnh vực sang tạo dựa trên những tiêu chí của cái đẹp, là kết tinh của cái đẹp. Nghệ thuật có khả năng vĩnh viễn hóa cái đẹp, ghi nhận và lưu giữ từng khoảnh khắc của cái đẹp trong cuộc sống để rồi biến nó thành vĩnh cữu như cách nhà thơ Lò Ngân Sủn định nghĩa cái đẹp như vị thần Vệ nữ: