Đề bài: “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng.” (Hoài Thanh)
Bài làm
Văn học phải chăng cũng tựa bản nhạc mà nhạc
sĩ Eđua Grigơ viết tặng nàng Đanhi – điệu nhạc du dương rạo rực, phập phồng hơi
thở cuộc đời, như tiếng tù và vang vọng cánh rừng thông, tiếng gió reo ca trong
những dây buồm… nơi thành phố Bécghen, quê hương nàng. Văn học là cuộc sống, là
kết tinh muối mặn cuộc đời. Vậy phải chăng công việc của nhà văn nhất thiết chỉ
cần đơn thuần dựa trên sự quan sát chính xác, không cần đến sáng tạo, tưởng
tượng? Cũng như nhiều nhà văn khác, Maupassant hoàn toàn bác bỏ ý kiến trên. Ông không cho phép ai phủ
nhận sự sáng tạo bởi nó mang đến sự phồn vinh của ý sáng tác, là đất đai mang
vàng bạc đến cho thơ văn. Nói theo Hoài Thanh thì: “Nhà văn không có phép thần thông
để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thé giới trong con mắt nhà văn phải có một
hình sắc riêng.”
Tác
phẩm không phản ánh những điều mông lung xa vời và nhà văn cũng “không có phép
thần thông để vượt ra ngoài thế giới này”.Đã trở thành một qui luật chung, bất
di bất dịch, văn chương của anh sẽ mãi tươi màu, neo chặt trong bến tâm hồn
người thưởng thức chỉ khi anh – nhà văn chấm ngòi bút của mình vào nghiên mực
cuộc sống. Cuộc sống chính là mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế
hệ này sang thế hệ khác để nuôi dưỡng văn học. Song nghệ thuật cũng là hoạt động
của trí tưởng tượng bất kham và sự sáng tạo là “thâm cung linh thánh” của văn
học. Vì vậy trong quá trình sáng văn học nói chung và sáng tác thơ ca nói
riêng, người cầm bút không chỉ mang trách nhiệm “người thư kí trung thành của
thời đại” mà còn phải “sáng tạo những gì chưa có”.
Cuộc sống là nơi cung
cấp chất liệu cho thơ, thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống nên thơ bao giờ cũng chứa
đựng bóng hình cuộc sống, bóng hình con người. Thơ ca là nơi con người gửi gắm
tâm tình, ước mơ, khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Thơ không thể
tách khỏi cuộc đời. Cuộc đời ban truyền nguồn nhựa sống mãnh liệt cho thơ và
thơ nở hoa làm đẹp cuộc đời, cống hiến cho con người những phút giây tuyệt vời
lắng đọng nhiều nỗi suy tư. Thơ ca là cuộc đời nhưng thơ ca không phải là trang
giấy in nguyên ven bóng hình của cuộc đời rộng lớn. Cuộc đời vốn bao la, vô
tận, như một bức tranh với ba chiều không gian trải rộng đến vô cùng. Nhà thơ
như những chú ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn ấy, hút lấy chất mật tinh túy
nhất, ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ thật sự có giá trị.
Hiện thực trong thơ
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đã được khúc xạ qua lăng kính thi
sĩ. Sự sáng tạo ở đây thể hiện qua góc nhìn mới mẻ, độc đáo và những phát hiện
riêng của người cầm bút trong quá trình khám phá hiện thực cuộc sống. Nó cũng
là kết quả của trí tưởng tượng nhằm tạo ra thế giới của ước mơ, lí tưởng, vươn
lên trên hiện thực khách quan để phá vỡ các giới hạn của sự tồn tại.
Cùng bắt nguồn từ
mảnh đất hiện thực nên nếu nhà văn không tìm tói, khám phá, sáng tạo, không có
một điểm nhìn mới, một “hình sắc riêng” thì trang viết của anh cũng sẽ trở
thành một món hàng sản xuất hàng loạt, thơ sẽ chỉ còn là sự nhai lại nhàm chán.
Sự sáng tạo của thi nhân đã làm thơ vừa quen vừa lạ, vừa là cuộc sống vừa là xứ
sở của lí tưởng và ước mơ.
Sứ mệnh cao cả của
thi ca là trở thành “thứ vũ khí thanh cao mà đắc lực” (Thạch Lam) để chống lại
cái xấu xa, giả dối. Vì vậy, ánh sáng lan tỏa và âm thanh lan truyền là điều mà
mỗi tác phẩm phải có. Muốn tác động đến tâm trí người đọc, tác phẩm phải có một
sức ám ảnh lớn, chiều sâu tư tưởng mạnh mẽ đối với nhận thức con người. Nếu thơ
ca chỉ là sự rập khuôn, đơn điệu nhàm chán, chỉ là những điều bình thường, vụn
vặt, tác phẩm sẽ trôi tuột khỏi tâm trí người đọc ngay khi cuốn sách khép lại.
Sức sống của tác phẩm
và yếu tố làm nên phong cách tác giả - dấu hiệu quyết định tên tuổi nhà thơ,
được tạo nên bởi yếu tổ sáng tạo trong thi ca. Văn học nói chung cũng như thơ
nói riêng phải là hoạt động sáng tạo mang tính cá thể, không lặp lại người khác
và lặp lại chính mình. Đó cũng là qui luật đào thải khắc nghiệt của văn chương:
người không sáng tạo sẽ bị quên lãng. Điều này đòi hỏi người cầm bút phải có
những điểm đặc biệt không bị lẫn với người khác, một “hình sắc riêng”, phải có
thứ “vân tay nghệ thuật” in dấu trong lòng người đọc.
Thơ
ca bao giờ cũng là dấu ấn sáng tạo của người cầm bút, thể hiện bản ngã, cái
tôi. Thế nhưng, cái tôi trong thơ trung đại hầu hết hòa trong cái ta chung. Thơ
ca trung đại đề cao tính vô ngã. Phải đến thơ mới, cái tôi mới được nhận thức
và thể hiện như là trung tâm của thơ ca. Có thể nói, thơ ca
hướng vào thể hiện cái tôi chính là con đường đưa thơ trở về với bản ngã của
chính nó. Với tư cách là chủ thể nhận thức, cái tôi cùng hệ thống quan niệm
thẩm mĩ mới mang dấu ấn của những tìm kiếm mới, sáng tạo mới, phong cách mới mà
văn học mấy thế kỷ qua chưa đạt tới được. Cái tôi ấy không chỉ bó hẹp thơ ca
trong mục đích tải đạo, nói chí, giáo huấn mà là chủ thể sáng tạo mang cá tính
riêng, phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng định mình. Cái tôi cũng là đối
tượng phản ánh của thi ca với tất cả sự phong phú, hấp dẫn, phức tạp của nó.
Với nhu cầu khẳng định cái tôi cá nhân, cá thể, các nhà thơ mới đã “đồng loạt
cất lên bản hòa tấu tuyệt đẹp với những âm thanh mới lạ, tân kỳ chưa từng có
trước đó” (GS. Hồ Thế Hà). Trong bản giao hưởng ấy, những vần thơ Xuân Diệu cất
lên đầy sôi nổi, hăm hở của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng
nhiệt.
Có lẽ “Vội vàng” là
tác phẩm bộc lộ đầy đủ nhất thế giới mang đậm thần thái, “hình sắc riêng” Xuân
Diệu. Đó là thế giới đầy hương sắc của thiên nhiên với bao của ngon vật lạ kích
thích mọi giác quan làm người ta say đắm. Nó là cái đẹp bát ngát mơn mởn của
“đồng nội xanh rì”, sự non tơ tươi mới của “cành tơ phơ phất”, niềm hạnh phúc,
yên bình mỗi sớm mai “thần vui hằng gõ cửa” chờ đón. Được cảm nhận bằng cả sự
tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muôn nên thiên nhiên cũng hiện ra như một
thế giới đầy xuân tình, mơn mởn, quyến rũ như một người tình kiềm diễm, tình
tứ, rạo rực, trinh nguyên:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Tháng giêng là sự khởi đầu mơn mởn của một
năm, là hình ảnh biểu tượng cho khoảnh khắc tươi đẹp, khoảnh khắc hiện hữu của
mùa xuân cuộc đời và của tuổi trẻ trên dòng chảy thời gian. Có lẽ trước Xuân
Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi
gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Một hình dung rất trừu tượng là “tháng
giêng” nhưng được cảm nhận cụ thể, gây ấn tượng mạnh qua từ “ngon”, phép ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác tài tình, mới lạ, táo bạo. Cảm nhận bằng vị giác lại hòa
quyện trong những rung động của thị giác. Từ những rung động của một hồn thơ
yêu đời, yêu sống đó đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn, tơ non, tràn
đầy sức sống thanh tân. Tháng giêng mang trong nó một sức quyến rũ không thể
cưỡng được, như một “cặp môi gần” tươi hồng, chín mọng của thiếu nữ hé mở, chờ
đợi, sẵn sàng hiến dâng.
Lần đầu tiên, bằng
đôi mắt xanh non biếc rờn, cái tôi thơ mới cảm nhận toàn bộ thanh sắc của cuộc
sống mang đậm màu sắc cá nhân. Song thơ mới cất tiếng khóc chào đời trong hoàn
canh u buồn, đau đớn của một thế hệ mất nước nên mỗi nhà thơ trốn vào những
“thiên đường” riêng, thoát li cuộc sống chán chường đương thời. Hoặc thả hồn mình
trên chốn bồng lai tiên cảnh như Thế Lữ hãy quay về khóc than cho quá khứ vàng
son dĩ vãng như Vũ Đình Liên hay tìm lãng quên trong những cơn say bất tận tựa
Vũ Hoàng Chương, mỗi nẻo đường ấy mang nhiều màu sắc phức tạp khác nhau. “Lầu
thơ” của Xuân Diệu cũng mang một “hình sắc riêng”. Nó được xây dựng trên đất
của “một tấm lòng trần gian”, của một tình yêu say mê, cuồng nhiệt với cuộc
sống. Vì vậy thiên đường trong thơ ông không đâu xa. Thiên đường ấy có ở ngay
mùa xuân quanh mình, đang bày ra trước mắt mà địa chỉ là cõi trần. Nhà thơ tựa
say sưa cùng tận với hơi men mùa xuân, hơi men cuộc sống, cái khát khao, hạnh
phúc tuyệt đích khi được “uống hàm hồ dòng suối mặt trời” , “cắn hàm hồ vào
trái tim của mùa xuân”.
Vẻ đẹp của đất trời
đầy sức sống và rạo rực tuyệt bích là thế nhưng chỉ “ngon” nhất ở độ xuân còn
con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ mà thôi. Cả hai
đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Không như con người trung
đại yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn “xuân khứ, xuân lai, xuân bất
tận”, với cái chu kì bốn mùa cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp
người, thời gian trong quan niệm của Xuân Diệu mang đến tất cả và lấy đi tất
cả. Trong hiện tại “đương tới” đã có màu li biệt “đương qua”, trong sự sống bắt
đầu “còn non” đã ẩn chứa hạt mầm của sự tàn phai “đã già”. Chẳng thế mà thi sĩ
cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại, “rớm vị chia
phôi” để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc
đều có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay
với không gian và với cả chính thời gian. Một sự tàn phai không thể nào tránh
khỏi. Thế nên, chỉ có thể “vội vàng” mà sống, chạy đua với thời gian, tranh thủ
sống:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi hương
Cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Bài thơ kết thúc bằng những cảm xúc mãnh
liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc một cuồng nhiệt, vô vập. Ta như có thể nghe
thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim thi sĩ. Nó hiện ra trong
những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa nhau của các tính từ chỉ xuân
sắc, những động từ chi trạng thái đắm say, những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân
tươi trẻ, như những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Cái “tôi” chật hẹp
đã chuyển thành đại từ “ta” rộng lớn, sánh ngang với vũ trụ. Câu thơ “Ta muốn
ôm” ngắn ngọn lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa dòng thơ là hoàn toàn
có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy tham lam đang đứng
giữa trần gian dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, chi khắp,
gom cho nhiều nữa mọi cảnh sắc mơn mởn, trinh nguyên của trần thế này vào, “cho
chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng”, “cho no nê thanh sắc của thời
tươi”. Nếu mở đầu bài thơ thi nhân muốn “tắt nắng”, “buộc gió”, lưu giữ tất cả
những “tuần tháng mật”, “khúc tình si” trong lo âu dự cảm thì giờ đây nhà thơ
hoàn toàn tự do tràn ngập trong hương thơm và ánh sáng. Lối sống “vội vàng” đã
giúp con người vượt thoát khỏi tính hữu hạn của thời gian để mỗi khoảnh khắc
sống trọn vẹn đều là vĩnh viễn. Khổ thơ như ly rượu tràn đầy và ngây ngất của
cuộc sống mà chưng cất nên chất “rượu của thế gian” đắm say ấy là cái đắm say
tận cùng của tình yêu trong “một cái hôn nhiều” và cái bồng bột của, hăm hở của
tuổi trẻ trong ước muốn “cắn” “xuân hồng”, “cắn” cái vẻ đẹp căng mọng tròn đầy
của cuộc sống như một con ong hút nhụy đã thỏa mãn, đã “no nê thanh sắc của
thời tươi” đang lảo đảo bay đi. Sống là hạnh phúc và “vội vàng” là cách duy
nhất để đến với hạnh phúc, là hạnh phúc cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc.
“Vội vàng” là thế
giới mang đậm “hình sắc riêng” của “chất Xuân Diệu”. Nó là một dòng cảm xúc dào
dạt, bồng bột có lúc thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình
ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên
ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Đó là
cách sống cuồng nhiệt, sống hết mình, sống thực sự có ý nghĩa với mỗi giây phút
cuộc đời. Nó không phải là lối sống hưởng thụ, gấp gáp, bất cần. Quan niệm sống
vội vàng của Xuân Diệu thể hiện khát khao sống mạnh mẽ, có bản sắc riêng. Con
người bằng tài năng và nhiệt huyết sẽ thắp lên ngọn lửa chói lọi của đời mình,
thi sĩ bằng thi ca sẽ chiến thắng cái chết và hư vô.
Thi
ca là quá trình phản ánh và sáng tạo đời sống. Thơ là hoa thơm của cuộc đời
nhưng nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và cái tôi bé nhỏ thì nó chỉ là
“những bông hoa làm bằng vỏ bào nhuộm khéo, một thứ vàng mạ.” (Pautovsky).
Trong thơ văn, sự sáng tạo thi vị hóa sự phản ánh để nó trở nên mới mẻ, thu
hút, giàu sức sống cũng như sự phản ánh giúp cho sự sáng tạo không chệch hướng,
không trở thành những điều vô nghĩa. Nhà thơ phải là “người thư kí trung thành
của thời đại” (Balzac) nhưng đồng thời dấu ấn chủ quan của anh phải được khẳng
định. Vì vậy với tư cách là một chỉnh thể thẩm mĩ, mỗi bài thơ phải là sự kết
hợp hài hòa giữa tính khách quan của chất liệu hiện thực và tính chủ quan của
quá trình sáng tạo.
“Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra
ngoài thế giới này” (Hoài Thanh) bởi văn học là kết tinh muối mặn cuộc đời, góp
nên trang là “những chữ của đời” (Chế Lan Viên). “Nhưng thế giới trong con mắt
nhà văn phải có một hình sắc riêng.” vì sự
sáng tạo là đất đai mang vàng bạc đến cho thơ văn, vì văn học là quá trình
phản ánh và sáng tạo đời sống, vì mỗi trang viết in dấu hiện thực cũng đồng
thời in dấu “vân tay nghệ thuật” riêng biệt, độc đáo và duy nhất của nhà văn.
LIÊN BÍCH NHƯ
(LỚP 12.4 THTH ĐHSP NIÊN
KHÓA 2015 – 2018)
Đề thi chọn đội tuyển môn Văn
lớp 12, đề số 2
Câu 1. (8 điểm)
Amonimus cho rằng: Con đường gần nhất để đi khỏi gian nan là đi xuyên qua nó. Nhưng có người lại khuyên: Hãy học cách ứng xử của dòng sông: gặp trở ngại, nó vòng đường khác.
Anh/ chị hãy bày tỏ quan điểm của mình về những ý kiến trên.
Câu 2. (12.0 điểm)
Trong bài ngoại cảnh trong văn chương, in trên báo Tràng An, số 82, ngày 10-12 -1935, Hoài Thanh viết: “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra khỏi thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng”.
(Hoài Thanh, trích Bình luận văn chương, NXB Giáo dục, 1998, tr54)
Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên. Hãy làm sáng tỏ.
Đáp án đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 11
Câu 1. (8 điểm)
Câu 1. (8 điểm)
Amonimus cho rằng: Con đường gần nhất để đi khỏi gian nan là đi xuyên qua nó. Nhưng có người lại khuyên: Hãy học cách ứng xử của dòng sông: gặp trở ngại, nó vòng đường khác.
Anh/ chị hãy bày tỏ quan điểm của mình về những ý kiến trên.
Câu 2. (12.0 điểm)
Trong bài ngoại cảnh trong văn chương, in trên báo Tràng An, số 82, ngày 10-12 -1935, Hoài Thanh viết: “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra khỏi thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng”.
(Hoài Thanh, trích Bình luận văn chương, NXB Giáo dục, 1998, tr54)
Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên. Hãy làm sáng tỏ.
Đáp án đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 11
Câu 1. (8 điểm)
1. Dẫn
dắt trích dẫn hai ý kiến
2. Giải
thích:
– Ý kiến thứ nhất: Dùng biểu tượng con
đường (giải pháp, cách thức tốt nhất vượt qua gian nan là con đường chấp nhận,
chủ động đối mặt vượt lên và chiến thắng.
– Ý kiến thứ 2: Mượn hình ảnh dòng sông luôn chảy vòng khi gặp núi đồi để nói về cách ứng xử trước khó khăn trong cuộc sống: không bỏ cuộc cũng không trực tiếp đối mặt mà tìm con đường khác, tiếp tục hành trình đạt mục đích cuối cùng. Ứng xử linh hoạt uyển chuyển, thay đổi phù hợp cuộc sống.
-> Hai ý kiến nêu cách ứng xử trước gian nan thử thách trong cuộc sống.
– Ý kiến thứ 2: Mượn hình ảnh dòng sông luôn chảy vòng khi gặp núi đồi để nói về cách ứng xử trước khó khăn trong cuộc sống: không bỏ cuộc cũng không trực tiếp đối mặt mà tìm con đường khác, tiếp tục hành trình đạt mục đích cuối cùng. Ứng xử linh hoạt uyển chuyển, thay đổi phù hợp cuộc sống.
-> Hai ý kiến nêu cách ứng xử trước gian nan thử thách trong cuộc sống.
Bản
quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn.
Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn
3. Chứng
minh:
*) Hai ý kiến tưởng chừng đối lập
nhưng đều đúng.
– Ý kiến thứ nhất đề cao lòng dũng cảm
– Ý kiến thứ hai đề cao sự mềm dẻo linh hoạt
*) Hai ý kiến bổ sung hoàn thiện cách ứng xử của con người trước khó khăn.
– Cần có cách ứng xử khéo léo phù hợp hoàn cảnh.
– Ý kiến thứ nhất đề cao lòng dũng cảm
– Ý kiến thứ hai đề cao sự mềm dẻo linh hoạt
*) Hai ý kiến bổ sung hoàn thiện cách ứng xử của con người trước khó khăn.
– Cần có cách ứng xử khéo léo phù hợp hoàn cảnh.
4. Bình
luận: Phê phán những con người đầu hàng trước khó khăn thử thách. Phê phán những
người đi vòng đi tắt bất chấp pháp luật để đạt mục đích.
5. Bài
học: Cần bình tĩnh tự tin ứng xử linh hoạt trước khó khăn. Nỗ lực vượt khó khăn
để thành công.
Câu 2. (12.0 điểm)
1. Giải
thích câu nói: Khẳng định tính sáng tạo của nhà văn, cái riêng, sự độc đáo của
mỗi tác giả trong tác phẩm. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật riêng,
một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì mới được
người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn.
Nhà văn phải bám sát hiện thực, mỗi tác phẩm phải là một thế giới riêng biệt
không lặp lại.
2.Chứng minh bằng các tác phẩm tiêu
biểu.
3. Nâng cao vấn đề và rút ra bài học
3. Nâng cao vấn đề và rút ra bài học
§
Đối với nhà văn khi sáng tạo không lặp lại
mình không lặp lại người khác. Phải có cách nhìn, khám phá, phong cách độc đáo.
§
Đối với người đọc: xem tác phẩm viết gì, viết
như thế nào.
§
Đối với lịch sử văn học: thực chất đóng góp của
nhà văn thể hiện cách nhìn, sự mới mẻ.
(Văn chương không có gì riêng sẽ
không là gì cả hoặc Mác-xen Pruxt cho rằng: Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng
đất mới mà cần một đôi mắt mới.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét