Cho đến
nay, các tài liệu lịch sử văn học đều nhất trí ghi nhận Thế Lữ là người bằng
sáng tác đã đưa đến thắng lợi quyết định cho Thơ
mới buổi chào đời.Mà nói đến Thế Lữ, người ta trước hết nghĩ đến bài Nhớ rừng.
Vậy thì, cũng có thể nói rằng, chính Nhớ rừng, là tác phẩm quan trọng nhất đã
dẹp được những lời dè bỉu xuất phát từ phái “thơ cũ” về cái gọi là “dốt nát”,
“ngẩn ngơ”, “vơ vẩn” của “bọn” làm Thơ mới.
Tại sao Nhớ rừng có thể làm được điều đó? Dĩ nhiên
là vì nó hay, hoàn hảo về hình thức và điều đặc biệt quan trọng đối với nhiều
người thuộc phái “thơ cũ” là nó có “nghĩa lí”. Nhớ rừng không viết về đề tài
tình yêu. Bài thơ tràn ngập một không khí bi tráng, có thể gợi nhiều suy nghĩ
về thời thế, về hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. Không phải không có lí khi một
số người nghiên cứu đã nhấn mạnh tâm sự yêu nước ở bài thơ (Sự nhấn mạnh ấy hẳn
chứa đựng nhiều ý nghĩa vào thời điểm Thơ mới lâm cơn “bĩ cực”). Ra đời trong
một bối cảnh lịch sử - xã hội và văn hoá đặc biệt của đất nước, hệ từ vựng gồm
những căm hờn, uất hận, cũi sắt, nhục nhằn, tù hãm, sa cơ, tình thương, nỗi
nhớ, ngày xưa, ngàn thâu, ngàn xưa, giang san, nước non... không phải, không
thể được sử dụng một cách vô ý. Nó dễ đụng đến chỗ nhạy cảm của tâm hồn Việt,
làm thức dậy những kí ức, làm khuấy động những nỗi niềm. Từ bài thơ, ta nghe
đồng vọng tiếng thở dài u uất của bao anh hùng thất thế “gậm một khối căm
hờn”...
Tuy nhiên, quá cường điệu hay bác bỏ ý nghĩa này
của Nhớ rừng đều là việc làm không thoả đáng. Nếu quá cường điệu, ta buộc phải
xem Nhớ rừng như một hiện tượng đi lạc hệ thống (“hệ thống" những sáng tác
của Thế Lữ và của đại đa số các nhà Thơ mới khác), mà điều này thì rất khó được
chấp nhận. Nếu bác bỏ, cho rằng bài thơ chỉ thể hiện khát vọng đòi giải phóng
cái tôi cá nhân thôi, thì phải lí giải làm sao về cái giọng thống thiết, bi
phẫn, về tâm sự ngụt lửa trong bài, dẫu vẫn biết thơ lãng mạn rất ưa dùng thủ
pháp khoa trương, phóng đại, thích tuyệt đối hóa vấn đề, thích dựng lên những
tương quan đối lập? Vả chăng, nếu nỗi ám ảnh về thân phận một người dân mất
nước vốn tồn tại thực trong tâm não của hầu hết người Việt Nam, thì vẫn có thể
khẳng định: những quan hệ xã hội mang tính chất tư bản chủ nghĩa mới được du
nhập vào Việt Nam (dù là quái dị do tương tác với các điều kiện thuộc địa), vẫn
chưa thể bộc lộ hết tất cả mặt phi nhân của nó như sau này để khiến cái tôi mới
chào đời phải thất vọng não nề, phải chán nản cùng cực, phải kêu lên phẫn uất
như con hổ trong bài thơ của Thế Lữ. Ngay trong trường hợp nhà thơ Việt Nam có
được trải nghiệm nỗi hoài nghi sâu sắc đối với xã hội tư sản, một cách gián
tiếp, thông qua văn học lãng mạn Pháp (vốn không phát triển đồng pha với văn
học lãng mạn Việt Nam) thì vấn đề vẫn không khác. Như vậy, sự lựa chọn chỉ một
trong hai ý nghĩa nói trên vô tình đã làm mờ bản sắc của bài thơ, khiến ta
không thấy hết đóng góp độc đáo của Thế Lữ. Nhớ rừng, như mọi bài thơ hay khác,
vốn đa tầng, đa nghĩa, có thể gợi nhiều chiều hướng cảm thụ khác nhau. Bài thơ
giống như sự kết tinh của hàng loạt mối quan hệ phong phú, phức tạp tồn tại
trong xã hội Việt Nam một thuở. Và khi đạt tới giá trị kết tinh ấy, nó dành
quyền tồn tại như một thông điệp gửi tới muôn đời, mời gọi một sự “thông diễn”
không hạn chế.
Cái tứ của Nhớ rừng không phải là của riêng Thế Lữ.
Ta đã thấy nó hiển hiện ở bài Sư tử trong chuồng của Jean Aicard, thấp thoáng ở
bài Chim hải của Charles Baudelaire. Nói rộng ra nữa, tứ “nhớ rừng” nằm trong
một cái tứ phổ quát của thơ lãng mạn: đối lập hiện thực với ước mơ, đối lập
hiện tại với quá khứ, đối lập cái tầm thường với cái cao cả, đối lập cái nhân
tạo với cái tự nhiên; thân sống trong hiện thực, hiện tại, trong cái tầm
thường, cái nhân tạo thô kệch mà hồn thì bay tới cõi ước mơ, hướng về quá khứ
vàng son, khao khát được sống cao thượng, trong sạch giữa thiên nhiên khoáng
dã... Qua cái tứ phổ quát đó, ta thấy lộ diện một cái tôi bất hoà với xã hội,
bất mãn với chính mình (đúng hơn là với tình trạng phải cam chịu trong cảnh tù
hãm của mình), bất an triền miên với chính nội tâm quá ứ đầy, quá phong phú mà
mình trót mang theo như một định mệnh. Xét từ góc độ này, có thể nói Nhớ rừng
đúng là một bài thơ lãng mạn, đã cho ta thấy rõ những đặc điểm thi pháp riêng
của loại hình thơ này. Tất nhiên, một tứ thơ của thời đại lãng mạn vẫn có thể
hợp nhất vào nó những cái tứ đã từng xuất hiện trong lịch sử thi ca. Giữa Nhớ
rừng của Thế Lữ và Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu không phải không có mối liên
hệ nào đó.
Chỉ ra tính phổ quát của tứ thơ ở bài Nhớ rừng
không hề làm giảm nét độc đáo trong cách hiện thực hoá tứ thơ của Thế Lữ. Nếu ở
bài Sư tử trong chuồng, Jean Aicard luôn tạo sự gián cách giữa nhân vật trữ
tình và con sư tử, tả con thú không may này như một đối tượng khách quan - đối
tượng đưa lại cho anh ta nhiều suy ngẫm về số phận bi đát của kẻ mất tự do, thì
ở bài Nhớ rừng, Thế Lữ (hay đúng hơn là nhân vật trữ tình) đã thực sự hoá thân
vào con hổ. Đọc bài thơ, đến lượt độc giả cũng thấy mình bị đồng nhất với hổ,
nhập cảm hoàn toàn tâm trạng hổ để có thể kêu lên những lời trầm thống, bi
thiết. Hẳn nhiên, tiếng kêu đòi tự do, đòi thoát khỏi kiếp sống tầm thường, tù
hãm của kẻ đang trải nghiệm thấm thía nỗi đau bị giam cầm hẳn phải lay động hơn,
phải “bật máu” hơn tiếng kêu hộ của một kẻ đồng cảm đứng ngoài. Chính Thế Lữ tự
ý thức được hoàn toàn về đặc điểm này của bài thơ, bởi vậy, với tư duy duy lí
tiếp nhận được từ phương Tây, ông phải cẩn thận chú thích dưới nhan đề Nhớ rừng
một dòng chữ: Lời con hổ ở vườn Bách thú, ý chừng muốn lưu ý độc giả đừng vì
nhập hồn vào bài thơ mà cứ mãi tưởng mình là hổ! Nghịch lí thay, càng làm cái
việc phân định rạch ròi, Thế Lữ càng cho thấy mức độ đồng nhất cao giữa đối
tượng miêu tả và cái tôi trữ tình! Nếu nói cho chi li, ngoại trừ lời chú thích
đã nêu vốn thuộc về phần nhan đề, trong phần “ruột” của bài thơ cũng có một câu
- chỉ một câu thôi - là thể hiện cái nhìn gián cách. Đó là câu Ta nằm dài,
trông ngày tháng dần qua. Thoạt đọc, ta vẫn thấy đó là câu “tự tình” của chính
con hổ, nhưng đọc kĩ, ta lại nhận ra một ánh nhìn, một quan sát đến từ phía bên
ngoai. Con các câu khác như Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng / Lượn tấm
thân như sóng cuộn nhịp nhàng và Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan bề ngoài xem
chừng giống như nét vẽ của nhân vật trữ tình đứng gián cách, kì thực lại là
những câu biểu hiện sự tự say ngắm mình của chính con hổ! Nói tóm lại, sự hóa
thân của nhân vật trữ tình vào con hổ là khá triệt để và điều đó đã đem lại
những hiệu quả tác động lớn không ngờ. Đây hiển nhiên là một nét đặc sắc của
bài thơ. Chính nó đã đưa vào bức họa tổng thể về chân dung cái tôi của Thơ mới
một nét rắn rỏi, giúp người đọc hiểu rằng cái tôi của Thơ mới một nét rắn rỏi,
giúp người đọc hiểu rằng cái tôi này không phải chỉ có dáng dấp ẻo lả, yếu đuối
và không phải bao giờ cũng chỉ biết quay lưng lại các vấn đề xã hội. Phải mạnh
mẽ, tự tin, và nữa, phải có “hồn thơ rộng mở’’ (chữ của Hoài Thanh) đến độ nào
thì mới có thể đồng nhất mình với chúa sơn lâm được chứ!
Như vậy, màu sắc tự biểu hiện của cái tôi trữ tình
ở bài thơ là rất đậm. Nhưng không vì thế mà chất tạo hình của Nhớ rừng lại
không nổi bật. Hai đặc điểm này không phản trái mà tương hợp với nhau. Lại vẫn
là một nét trội trong thi pháp của loại hình thơ lãng mạn mà ở đó cái tôi trữ
tình ưa đối tượng hoá lòng mình để được tự ngắm, tự ve vuốt! Trong bốn đoạn của
bài thơ Nhớ rừng, đoạn hai là đoạn thể hiện khả năng tạo hình của ngòi bút Thế
Lữ rõ rệt hơn cả. Câu chữ nổi gồ lên, khiến hình tượng đập mạnh vào thị giác, thính
giác. Những gào, những hét, những thét vừa trùng lặp vừa biến hoá, kích mãi lên
một cảm giác mãnh liệt. Cũng thế, những sơn lâm, bóng cả, cây già, lá gai, cỏ
sắc, những dõng dạc, đường hoàng, nhịp nhàng, những quắc, tan, chuyển, gội,
lênh láng... trông giống như những vạch màu ngắn, liên tiếp, trùng trùng trong
tranh Vincent Van Gogh, đưa đến ấn tượng về trạng thái mê man lên đồng của kẻ
đang bị vây riết bởi những kí ức hào hùng và của sự sáng tạo. Từ kí ức của con
hổ, tất cả vẻ đẹp man dại, phóng khoáng của chốn nước non hùng vĩ hiện ra mồn
một, động cựa, biến đổi không ngừng. Rất ít hoặc hầu như không có những hòa sắc
xám nhạt, tan loãng, mơ hồ mà chủ yếu là những màu nguyên đậm đà, tươi tắn,
kích thích. Chi tiết ken dày trong đoạn thơ và nói chung là trong cả bài thơ,
cho thấy một nhãn thức tạo hình rất khác với nhãn thức tạo hình của thơ cổ
điển, của loại hình văn nhân họa vốn thích cái vô ngôn, thích chừa khoảng trống
cho sự lắng mình chiêm nghiệm, sự thả hồn phiêu diêu theo những ý niệm huyễn hồ.
Rõ ràng những điều đó là biểu hiện của một cái tôi muốn toàn quyền đặt và phân
phối cảm xúc của mình lên thế giới chung quanh, gom thế giới vào tà và biến ta
thành tất cả thế giới. Nhưng với Nhớ rừng, Thế Lữ không chỉ tiếp thú thuần thục
kiểu tạo hình mới tràn đầy nhiệt hứng của loại hình thơ lãng mạn mà còn rút tỉa
được cả những kinh nghiệm nghê thuật quý báu của phái Thi sơn (La Parnasse) vốn
thích những đường nét mô tả đầy tính điêu khắc đối với thế giới hữu hình. Đọc
bài thơ ta cảm nhận được rất rõ cái trương lực được Đọc bài thơ, ta cảm nhận 1
được rất rõ cái trương lực được tạo nên bởi cuộc tranh chấp giữa việc buông 1
thả mình theo những cảm xúc say sưa và việc tiết chế chính những cảm xúc đó,
không để chúng làm tan loãng khối hình thực có của các đối tượng được nhắc đến.
Xét từ góc độ này, có thể nói Thế Lữ không phải là một nhà thơ lãng mạn thuần
thành theo kiểu của Alphonse de Lamartine, Alfred de Musset... Dấu vết ảnh
hưởng Leconte de Lisle không thể nói là không đậm, từ niềm thích thú quan sát những
tập tính của động vật đến cách làm nổi bật dáng vẻ uy nghi, bí ẩn của thiên
nhiên trong các bài thơ. Nói cụ thể, có lẽ câu thơ Lượn tấm thân như sóng cuộn
nhịp nhàng đã được Thế Lữ viết ra trong sự ám ảnh của các câu thơ của Leconte
de Lisle: Đôi khi một con trăn ngủ, nóng quá, uốn lưng như sóng cuộn, vẩy da
lấp lánh dưới ánh mặt trời /Con voi đầu đàn, đầu như một khối đá, xương sống
hình cung, mỗi khi voi bước, lại uốn cong lên một cách mãnh liệt... (bài Đàn
voi);... Báo đen, kẻ chuyên săn bò và ngựa / Hung hiểm muộn phiền, nó bước đều
đặn quay yề / Theo chiều dài những thân cây già da rêu đã chết / Nó đến, cọ tấm
lưng vạm vỡ oằn lên... (bài Giấc mơ của báo đen)...
Từng có ý kiến cho rằng để tô đậm cái phi thường
của hình tượng trung tâm (con hổ), nhà thơ đã tạo nên sự tương phản gay gắt
giữa tầm vóc oai dũng của hổ với cái tầm thường không chỉ của hoàn cảnh sống
nơi vườn Bách thú mà còn của “cả bao tạo vật, cảnh trí lớn lao trong vũ trụ”.
Các dữ kiện có trong bài thơ cho phép ta nhìn nhận vấn đề theo một cách khác.
Có một sự phân biệt - đối lập rất rõ ai cũng thấy giữa cảnh hoa chăm, cỏ xén,
lối phẳng, cây trồng với cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, nghĩa là giữa cảnh /
cái nhân tạo với cảnh / cái tự nhiên. Con hổ chỉ ghét và khinh miệt hoàn cảnh
sống tầm thường, giả dối, tù hãm mà nó không may lâm vào chứ không hề chối bỏ,
coi rẻ môi trường tồn tại đích thực, nguyên thuỷ của mình. Nếu hổ thấy tất cả
đều như nhau đều không ra gì, chả hoá ra sự phân biệt - đối lập ở trên là vô
nghĩa? Con hổ nhớ rừng, gọi rừng là chốn ngàn năm cao cá, âm u, là cảnh nước
non hùng vĩ, oai linh, ghê gớm... cơ mà! Bao nhiêu trìu mến tụ về trong câu Ta
lặng ngắm giang sơn ta đổi mới, và cũng có bao nhiêu nỗi khát khao được chia sẻ
với rừng dồn chứa ở tiếng gọi cuối bài Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi! Hổ
không có rừng thì còn gì là hổ! Rừng là cuộc sống của hổ, là nơi nuôi dưỡng,
giữ gìn, khơi dậy và nhân lên sức mạnh huyền bí của hổ, cho hổ có được cái ý
thức mình là chúa tể cả muôn loài, có thể ngự trị, vùng vẫy để làm nên cả một thời
oanh liệt... (Lưu ý thêm: rừng trong sáng tác của các nhà thơ lãng mạn, đặc
biệt trong thơ Thế Lữ, luôn là một biểu tượng của sức mạnh nguyên thủy, của cái
tự nhiên mà con người đã đánh mất. Vì vậy, nó thường được đặt ra như một tấm
gương giúp người ta thấy được chân diện mục của cảnh sống, tình trạng sống bất
như ý hiện tại, và từ đó khơi dậy nỗi nhớ nhung hoặc niềm khắc khoải tìm về).
Dù được đặt trên cùng một “mặt phẳng” của trang
thơ, câu Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ và câu Ta biết ta chúa tể cả muôn
loài chính thuộc về hai cấp độ tứ khác nhau (tứ bao quát toàn bài và tứ bộ phận
của đoạn), hướng tới những tiêu điểm nghệ thuật không giống nhau. Câu thơ sau
và một số câu khác của đoạn hai như Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc / Là
khiến cho mọi vật đều im hơi; Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt / Để ta chiếm
lấy riêng phần bí mật không toát lên giọng điệu khinh miệt đối với “cả thế
giới”, mà toát lên ý thức khẳng định uy quyền của một kẻ hiểu sức mạnh của mình
và đang có được sức mạnh đó, muốn thi thố sức mạnh đó (theo giấc mộng ngàn
thoát ra từ vườn Bách thú). Nhận định “Hình ảnh “mảnh mặt trời” gợi ra được cái
nhìn tàn bạo của con Hổ muốn dẫm nát cả vũ trụ” (Nam Chi) nếu được chấp nhận
thì cũng chỉ nên xem nó như một cách diễn đạt đầy ấn tượng về sự tự tin vào bản
thân và khát vọng chiếm hữu toàn bộ thế giới của con hổ (cũng là của cái tôi cá
nhân) mà thôi. Không thể diễn dịch nó ra thành cái ý nói về sự đối chọi mang
tính chất “khùng điên” của con hổ đối với tất cả. Ngay trong khát vọng muốn chiếm
hữu thế giới đã bao hàm thái độ khẳng định cái “đáng kể” của thế giới rồi! Con
hổ có ý thức được giới hạn sức mạnh của mình hay không? Chính tiếng kêu Than
ôỉ! Thời oanh liệt nay còn đâu? đã nói lên tất cả! Đó là chỗ “đáng quý”, “đáng
yêu” và “đáng thương” của hổ. Đó cũng là chỗ giá trị nhân bản, nhân loại của
hình tượng con hổ được thể hiện rõ. Từ khát vọng và bi kịch của con hổ, ta đọc
thấy khát vọng và bi kịch không chỉ của cái tôi cá nhân một thời mà còn của
chung con người trong mọi thời. Khả năng tích hợp ý nghĩa của hình tượng con hổ
trong Nhớ rừng quả thực là lớn lao. Ở trên cố nói rằng hình tượng này có thể
mời gọi một sự “thông diễn” không hạn chế là vì vậy.
(Bài viết “Tiếp cận hình tượng con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ”)
TS. PHAN HUY DŨNG