Thứ Hai, 6 tháng 1, 2020

Thế giới như nó "đang là", "có thể" và "phải là"

Thế giới như nó "đang là", "có thể" và "phải là"
Tôi tự hỏi văn chương đã đem đến cho ta những gì, đã phản ánh những gì mà chưa một phút giây nào nhân loại ngừng say đắm và thao thức vì nó? Có ý kiến cho rằng “Văn học không chỉ quan tâm đến thế giới như nó đang là mà quan tâm đến thế giới như nó có thể và phải là”. Phải chăng, chính cái “thế giới như nó có thể và phải là” được trưng bày trong tác phẩm là mục đích, lý do tồn tại đích thực của văn học và cũng là sức hấp dẫn kỳ diệu của văn chương nghệ thuật trong mỗi con người.
Quan niệm trên giúp ta nhận ra những đối tượng mà văn học đặc biệt quan tâm. Đối tượng đầu tiên mà văn học luôn chú trọng phản ánh đó là “thế giới như nó đang là”, là hiện thực cuộc sống, thế giới khách quan tồn tại xung quanh chúng ta. Nhưng văn học không dừng lại ở việc thể hiện bản chất của cuộc sống, cái mà văn học quan tâm hàng đầu là một “thế giới như nó có thể và phải là”. “Thế giới như nó có thể” là một thế giới mang những hạt mầm tiềm năng của tương lai, là con đường phát triển của hiện thực cuộc sống. Còn “thế giới như nó phải là” hay cũng chính là thế giới của những lý tưởng, khát vọng, ước mơ nơi tâm hồn con người. Ấy là một thế giới chứa đựng những giá trị tốt đẹp, ca tụng lẽ phải, chính nghĩa. Tóm lại, nhân định trên đã đề cập đến các đối tượng mà văn học quan tâm bao gồm hiện thực đời sống - “thế giới như nó đang là”, thế giới của tương lai - “thế giới như nó có thể” và thế giới của những ước mơ, khát vọng trong con người - “thế giới như nó phải là”.Từ những đối tượng ấy, nhận định làm bật lên nhiệm vụ, chức năng của văn học: văn chương nghệ thuật cần phản ánh thế giới thực tại của cuộc sống nhưng đồng thời cũng cần quan tâm, đi sâu khám phá vào thế giới nội tâm của con người để hiểu hơn về những tâm tư, khát vọng, giúp xây dựng trên trang giấy một “thế giới như nó có thể và phải là”.
Nhận định trên là một nhận định hoàn toàn đúng đắn đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về đối tượng phản ánh và sứ mệnh cao cả của văn học đối với con người. Vậy, vì sao văn học lại quan tâm đến “thế giới như nó đáng là” ? Bởi “cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”. Hiện thực là nguồn gốc của ý thức, của nhận thức, là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật đồng thời là chìa khóa giải thích các hiện tượng phức tạp trong nghệ thuật. Văn học phải phản ánh những vấn đề của cuộc sống vì chỉ khi hướng về với đời sống nhân dân, văn học mới tìm được cho mình nguồn cảm hứng dồi dào cũng như chất liệu sáng tạo đặc sắc. Hơn nữa, bởi đối tượng tiếp nhận văn học là con người, nếu văn học không miêu tả thế giới của con người – “thế giới như nó đang là” thì làm sao người đọc có thể tìm thấy sự tri âm đồng điệu, soi bóng chính mình trong quá trình cảm thụ tác phẩm? Cội nguồn của văn chương là cuộc sống mà nói đến cuộc sống thì không thể không nhắc đến cái thế giới đang vận hành, đang diễn ra của nó. Do đó, bất ký một tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng là tấm gương phản ánh “thế giới như nó đang là” lấy hiện thực cuộc sống làm cái lõi để ngày một phát triển đặc sắc hơn.
Nhưng tác giả của nhận định như muốn tô đậm, thu hút người đọc vào vế sau “mà quan tâm đến thế giới như nó có thể và phải là”.Vậy vì sao văn học cần khám phá cái thế giới “như nó có thể”? Bởi trong quá trình phản ánh hiện thực xã hội văn học khai thác, tìm hiểu những vấn đề mang tính bản chất, những khía căn bản của cuộc sống. Quá trình nhận thức hiện thực giúp văn học có khả năng vươn lên tầm cao của sự khái quát, nắm bắt được sự vận động bên trong của đời sống xã hội. Chính từ độ chín của sự khát quát, khám phá ấy, văn học có tiền đề vững chắc để đưa ra những dự báo tương lai. Quan trọng hơn, hiện thực cuộc sống vốn là một thế giới không ngừng vận động và phát triển theo chiều xoắn ốc, mỗi chặng đường là sự kế thừa, gìn giữ những giá trị tốt đẹp của thời kỳ trước, phá bỏ những yếu tố không cón phù hợp, đồng thời luôn hàm chứa những mầm mống làm nên giai đoạn sau. Căn cứ vào sự vận động mạnh mẽ bên trong của hiện thực, các nhà văn với đôi mắt tinh tường có khả năng nhìn thấu được sự phát triển tất yếu của cuộc sống, từ đó giúp họ tiên đoán, dự báo trước tương lai. Nắm bắt những quy luật vận động của xã hội, nhà văn đề xuất các giải pháp, lối đi đúng đắn cho sự phát triển của hiện thực khách quan trong sáng tác của mình. Thông qua tác phẩm, nhà văn tác động vào bạn đọc bằng con đường tư tưởng, giúp người đọc hình dung về cuộc sống tương lai. Để rồi, người nghệ sĩ gián tiếp cải tạo xã hội, góp phần kiến tạo nên một thế giới “như nó có thể” cho nhân loại, một thế giới ngày mai tươi sáng hơn. Cho nên văn học bao giờ cũng quan tâm đến việc xây dựng cái thế giới “ như nó có thể”, vì chính thế giới ấy sẽ giúp cho con người thoát khỏi bóng tối của cuộc sống thực tại và hướng họ về một tương lai tốt đẹp.
Và thế giới “như nó phải là” là gì, nó nhằm phục vụ điều gì mà văn học lại phải đặc biệt quan tâm và đề cao? Bởi hiện thực trong tác phẩm văn học không phải là sự sao chép nguyên xi cuộc sống mà bao giờ củng biểu hiện, những khát vọng, tâm tư tình cảm của con người. Do đối tượng phản ánh trung tâm của văn học là con người, mà điều làm nên vẻ đẹp của con người là gì ngoài những ước mơ lý tưởng? Để chạm đến những hoài bão, ước vọng – nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn con người văn học phải len lỏi vào những suy tư, lắng nghe những tâm sự, những tình cảm buồn vui của loài người. Nếu tác phẩm văn học không trưng bày một thế giới “như nó phải là” mà miêu tả “cuộc sống chỉ để miêu tả” thì làm sao nó có thể “nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường”? Thế giới trong tác phẩm phải là thế giới được vun đắp nên từ những ước mơ, lý tưởng con người, là thế giới ca tụng sự công bằng, tình yêu thương, cái thiện. Trong sự cảm thụ tác phẩm, thế giới “như nó phải là” hiện ra giúp xoa dịu những nỗi đau tinh thần nơi người đọc, củng cố và tiếp thêm cho họ niềm tin, niềm hy vọng vào cái tốt, cái đẹp. Chính thế giới ấy đã khiến cho văn học có những nét đặc trưng riêng biệt, tuy thống nhất nhưng không đồng nhất với hiện thực cuộc sống. Tóm lại, văn học cần quan tâm và kiến tạo nên thế giới “như nó phải là”, bởi đó là cách duy nhất giúp văn học trở thành “thứ vũ khí thanh cao và đắc lực” nhằm thay đổi, cải tạo xã hội đúng với lý tưởng mong muốn của con người.
Bên cạnh đó do bản thân nghệ thuật là hoạt động sáng tạo thẩm mỹ mang tính chất cá thể vì vậy văn học phải phản ánh vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của những tâm tư, khát vọng thể hiện trong thế giới “như nó phải là”. Xây dựng và tôn vinh cái đẹp trong thế giới của mình, văn học mới có thể mang đến sự đền bù về mặt thẩm mỹ cho người đọc khi họ được sống trong thế giới của nghệ thuật, nơi cái tốt, cái thiện sẽ được tưởng thưởng, hạnh phúc, cái ác, cái gian dối sẽ bị tố cáo, tiêu diệt. Với đặc trưng thẩm mỹ, nói đến văn học là nói đến cái đẹp, văn học không thể dửng dưng, ngoảnh mặt làm ngơ trước những khát vọng cao đẹp của con người. Bởi thiếu khát khao vươi tới cái đẹp, văn học sẽ mất đi sức mạnh cơ bản của nó, sẽ không thể thanh lọc tâm hồn con người và cải tạo xã hội. Tóm lại “Văn học không chỉ quan tâm đến thế giới như nó đang là mà quan tâm đến thế giới như nó có thể và phải là”. Nhà văn, qua tác phẩm của mình, phải tìm mọi cách để biến cái thế giới “như nó phải là” kia trở thành một thế giới có thật, một thế giới “như nó có thể” và thậm chí là trở thành “thế giới như nó đang là”.
“Trong sáng tác của Thạch Lam luôn thấp thoáng cái tôi trữ tình của nhà văn, ngòi bút của Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác...” (Nguyễn Hoàng Khung). Thạch Lam – người nghệ sĩ đã chọn văn học lãng mạn làm mảnh đất cho sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của mình. Với đặc trưng của văn học lãng mạn là thoát li khỏi thực tại và đi sâu vào thế giới nội tâm, thế giới ước mơ của con người, Thạch Lam đã phác họa nên cái thế giới “như nó có thể và phải là” trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” mà cụ thể là ở khung cảnh chờ tàu.
Trước hết, nhà văn đã phản ánh “thế giới như nó đang là” trong tác phẩm chính là hiện thực cuộc sống nơi phố huyện tối tăm, tù đọng. Thế giới ấy được Thạch Lam miêu tả: “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối dày đặc bao phủ lên cuộc sống và số phận con người, mở ra bi kịch những kiếp người tàn nơi phố huyện. Ở nơi đây, những đứa trẻ con nhà nghèo “tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của người bán hàng để lại”, hai mẹ con chị Tý dọn hàng từ chập tối “nhưng chả kiếm được bao nhiêu” hay An và Liên, hai đứa trẻ trông nom cửa hàng cả ngày trời mà “bán cũng chẳng ăn thua gì”. Trong tác phẩm, mỗi nhân vật hiện ra đều mang theo một bi kịch riêng nhưng nhìn chung cái thế giới “như nó đang là” được thể hiện là một cuộc sống khó khăn, nghèo túng, khổ cực đến mức “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.
Nhưng với Thạch Lam, một nhà văn luôn nặng lòng trước những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh đã không để yên cho thế giới “như nó đang là” tiếp diễn trên trang giấy của mình. Qua việc thể hiện những khát vọng của An và Liên trong cảnh chờ tàu, Thạch Lam đã gián tiếp kiến tạo nên một thế giới “như nó có thể và phải là”. Trong mắt An và Liên, đoàn tàu là hoạt động sống cuối cùng nhưng cũng là hoạt động sôi nổi, náo nhiệt nhất trong ngày ở nơi phố huyện tĩnh lặng. Chính vì vậy, đoàn tàu đến với “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi” đã mang lại niềm vui cho tâm hồn thơ trẻ, khiến Liên phải dắt em đứng dậy để nhìn đoàn tàu vụt qua. Nhà văn Thạch Lam đã rất tinh tế khi đào sâu vào thế giới nội tâm của cả hai nhân vật. Với chị em Liên, đoàn tàu không chỉ mang đến sự khuấy động mới mẻ cho cuộc sống của họ mà còn là ánh hồi quang gợi nhớ trong hai đứa trẻ miền ký ức về một Hà Nội thân thương – nơi gia đình An và Liên đã sinh sống trước đây. An và Liên càng tha thiết mong đợi đoàn tàu đến bao nhiêu thì khi đoàn tàu đi, chúng lại càng hụt hẫng, nuối tiếc bấy nhiêu. Sự xuất hiện của đoàn tàu tựa vì sao băng thoáng ngang qua bầu trời nơi phố huyện, nhưng để lại trong tâm trí hai đứa trẻ bao xúc cảm bâng khuâng, xao xuyến. Nó cứ chao qua chao lại nơi trái tim chúng bởi đoàn tàu chính là ước mơ, là niềm hy vọng đổi đời, niềm tin của An và Liên vào một tương lai tốt đẹp hơn, về một thế giới “như nó có thể” nơi cuộc sống của những đứa trẻ không còn bị khuôn hẹp trong sự nghèo khổ. Ước mơ, khát vọng mãnh liệt của An và Liên hay cũng chính là thế giới lý tưởng, một thế giới “như nó phải là” mà nhà văn Thạch Lam mong muốn xây dựng trong tâm thức bạn đọc. Qua chi tiếc cảnh chờ tàu, nhà văn đã tác động vào suy nghĩ của người đọc, gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh rằng cần phải thay đổi, phải cải tạo hiện thực trở nên tốt đẹp, lý tưởng hơn, trở thành một thế giới “như nó có thể và phải là” để An và Liên nói riêng và người dân nơi phố huyện nói chung được sống hạnh phúc hơn, một cuộc sống mà họ hằng mơ ước. Chỉ khi cái thế giới “như nó có thể và phải là” bước ra khỏi trang giấy và trở thành một thế giới thật, văn học mới hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình đó là cứu rỗi, nâng đỡ những kiếp phận bất hạnh, đáng thương.
Quan niệm về thiên chức của người nghệ sĩ, Marcell Proust cho rằng “ Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Trong văn học, thế giới mà người nghệ sĩ tạo lập trên trang giấy phải là thế giới của cái đẹp, tôn vinh cái đẹp của con người và cuộc sống. Văn chương của Nguyễn Tuân sinh ra như để phục vụ cho sứ mệnh cao cả ấy của nghệ thuật, bởi với Nguyễn Tuân “Nghệ thuật trước hết là cái đẹp”, ông dành trọn cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp và tôn thờ nó. Chính vì vậy trong sáng tác “Chữ người tử tù” của mình, Nguyễn Tuân đã lấy cái đẹp làm trung tâm để tạo lập nên thế giới “như nó có thể và phải là”.
Trong tác phẩm “Chữ người tử tù” “Thế giới như nó đang là” không được nhà văn miêu tả rõ mà hiện thực được thể hiện gián tiếp qua hình ảnh nhà tù tăm tối, từ đó phản ánh toàn bộ bức tranh xã hội Tây Tàu nhố nhăng “Ối a ba phèng”. Nhà tù, một nơi “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, nơi bị bóng tối chiếm lĩnh, cai trị. Nhà tù còn là nơi trưng bày rõ nhất bộ mặt xấu xa, sự bất công tàn bạo của xã hội đương thời. Chính vì vậy sống trong cái xã hội thiện – ác đảo lộn ấy đã đẩy những kẻ như Huấn Cao – những con người có tài, dám đứng lên chống lại cái ác, những con người đáng lý phải được xã hội tôn vinh và trọng dụng lại trở thành những tên tử tù bị bắt giam trong nhà ngục chờ ngày tử hình. Qua đó Nguyễn Tuân không chỉ phản ánh cái thế giới “như nó đang là” mà còn ngầm lên án, tố cáo những điều xấu xa trong xã hội Tây Tàu nhố nhăng.
Nhưng cũng chính từ xã hội “Ôi a ba phèng” ấy, Nguyễn Tuân đã tạo lập nên thế giới “như nó có thể và phải là”. Đó là một thế giới được làm chủ bởi chủ bởi cái đẹp, nơi vẻ đẹp của con người được soi chiếu qua lăng kính tài hoa nghệ sĩ, thể hiện đặc sắc trong chi tiết sáng giá nhất của tác phẩm – cảnh cho chữ. Ở buồng tối của nhà tù, nơi tưởng chừng chỉ chứa đựng cái chết lại xảy ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh cho chữ hiện ra dưới “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”. Trước khoảnh khắc cái đẹp được sinh ra, mọi rào cản dường như đều bị phá vỡ khiến con người trở nên bình đẳng và gần nhau hơn. Ta chợt thấy hình ảnh “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, một viên quản ngục “vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Trong khoảnh khắc ấy, cái đẹp của con chữ, của tài hoa, nhân phẩm đã giải thoát, cứu rỗi cho hai loại người tù: một loại người bị giam giữ về thể xác nhưng tự do về tinh thần, một loại người bị giam cầm về tinh thần nhưng lại tự do về thể xác. Cái đẹp sáng ngời nơi nhà tù tăm tối ấy không chỉ là cái đẹp của tài năng con người mà còn là cái đẹp của tình cảm tri âm đồng điệu giữa Huấn Cao và viên quản ngục, giữa một người cho đi và một người người nhận lấy cái đẹp. “Thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ”, đó là lời khuyên chân thành, là sự hướng về cái thiện của Huấn Cao dành cho viên quản ngục. Con chữ mà Huấn Cao trao đi chính là lời tuyên thệ của cái đẹp, là ánh sáng thiên lương cảm hóa viên quản ngục và giúp ông tìm lại chính mình. Đứng trước cái đẹp và được nó soi rọi, dẫn lối, con người ta dù có mê muội đến đâu cũng đều phải thức tỉnh. “Ngục quan cảm động vái người tù một vái” nghẹn ngào thốt lên: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Phải chăng con người chỉ vái lạy trước cái đẹp khi cái đẹp đã tràn đầy tâm hồn ta? Có những cái cúi đầu làm cho người ta thấp hèn, có những cái vái lạy làm cho người ta đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho người ta sang trọng và cao cả đó là cái cúi đầu thành kính trước cái tài, cái thiện lương. Con chữ ấy, cái đẹp và ánh sáng thiên lương ấy sẽ mãi mãi trường tồn nơi lòng người, nó khiến cái chết trở nên nhỏ bé và đưa người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp – Huấn Cao trở thành bất tử. Như vậy, qua cảnh cho chữ, nhà văn đã bày tỏ quan niệm của bản thân về cái đẹp, Cái đẹp phải đi với cái thiện, nó có thể sản sinh từ cái chết, nơi cái ác ngự trị nhưng không thể cùng tồn tại với cái ác. Và để sở hữu, chiếm lĩnh cái đẹp, con người cần phải bảo vệ và giữ gìn thiện lương, kể cả phải hy sinh tính mạng của mình. Trên trang giấy, Nguyễn Tuân đã mở ra một thế giới nơi tôn vinh vẻ đẹp của con người, của tài hoa nhân phẩm và của cái thiện. Nhưng quan trọng hơn, nhà văn đã tạo lập nên một thế giới “như nó có thể và phải là” để cái đẹp được sống mãi, được tiếp tục sinh ra để chiến thắng cái ác. Quả là không sai khi nói rằng “Nếu có một ngôi đền để thờ phụng CÁI ĐẸP thì Nguyễn Tuân chính là viên tử tế chuyên lo công việc đèn nhang cho người đến lễ”.
Qua hai tác phẩm “ Chữ người tử tù” và “Hai đứa trẻ”, dù là hai câu chuyện, hai phong cách văn chương khác nhau, nhưng ở Thạch Lam và Nguyễn Tuân ta nhận thấy điểm giao nhau của họ là tấm lòng tha thiết trước những khát vọng, lý tưởng, vẻ đẹp trong tâm hồn của con người. Nếu Thạch Lam rung động trước những ước mơ đẹp của kiếp người nghèo khổ, bất hạnh – những kiếp người tàn thì Nguyễn Tuân lại nghiêng mình trước vẻ đẹp của tài hoa, của ánh sáng thiên lương cao cả. Cả hai nhà văn, bằng những cách thức khác nhau, đều đã kiến tạo nên thế giới “như nó có thể và phải là”, thúc đẩy con người nhanh chóng cải tạo xã hội để biến cái thế giới nơi trang giấy trở thành một thế giới có thật.
Bên cạnh đó, quan niệm cũng đã đưa ra những bài học sâu sắc cho quá trình sáng tác của nhà văn và quá trình tiếp nhận của bạn đọc. Nhà văn cần phản ánh hiện thực cuộc sống “thế giới như nó đang là” trong tác phẩm để không đi trái lại với các đặc trưng cơ bản của văn chương nghệ thuật. Nhưng nhà văn cũng không được quên sứ mệnh “nâng giấc cho những kẻ cùng đường, tuyệt lộ”. Anh cần phải xây dựng nên một thế giới khác với thế giới của thực tại, đó là thế giới “như nó có thể và phải là” để nâng đỡ các giá trị tinh thần cho người đọc. Đồng thời, nhà văn cũng cần sáng tạo nên những hình thức nghệ thuật phù hợp để nội dung tác phẩm được đầy đủ, trọn vẹn hơn. Về phía bạn đọc khi lĩnh hội thông điệp mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm cũng nên tìm cách hiện thực hóa những thông điệp ấy, có những phương án tác động vào đời sống xã hội để hiện thực phát triển theo hiều hướng đúng đắn, trở thành thế giới “như nó có thể và phải là” trong tương lai.
“Cái đẹp cứu chuộc thế giới“ (Doxtoepxki). Để thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng ấy, “Văn học không chỉ quan tâm đến thế giới như nó đang là mà quan tâm đến thế giới như nó có thể và phài là”. Chỉ khi văn chương hòa vào cuộc sống, đào sâu vào những ước muốn nội tâm, những tâm tư tình cảm và phát hiện hiện, trân trọng vẻ đẹp của con người, văn học mới có sức mạnh thay đổi, cải tạo xã hội và hướng nhân loại về các giá trị tốt đẹp hơn.
NGUYỄN NGUYÊN THU HÀ
LỚP 11 CHUYÊN VĂN TRƯỜNG THTH ĐHSP
2019 - 2020

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ĐỀ: “Một vầng trăng in trong gương Vẫn là một vầng trăng. Vầng trăng qua lòng mắt người nghệ sĩ Có thể thành vô vàn nét đẹp.” (Theo Phạm T...