Thứ Năm, 15 tháng 8, 2019

CẢNH NGÀY XUÂN 2

Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu thơ đầu:

” Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Nguyễn Du vẽ lên bức tranh xuân thật đẹp, đặc biệt nhà thơ đã lựa chọn chi tiết tiêu biểu mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Đọc hai câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân ” chim én”, ” thiều quang” gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất. Qua đó câu thơ thứ hai đã chỉ rõ ngày xuân trôi qua nhanh như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết trời trong xanh, những con én rộn ràng chao liệng như nhịp thoi đưa trên bầu trời, gợi ra một không gian, thoáng đãng cao rộng gợi lên nhịp trôi chảy của thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời còn tỏ ý tiếc nuối thời gian trôi quá nhanh của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên đẹp hơn bởi sắc “xanh” của cỏ non, sắc ” trắng” của ” một vài bông hoa” lác đác.

” Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Đây mới thực sự là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả sử dụng biện pháp chấm phá tái hiện bức tranh xuân tươi tắn, sống động gợi liên tưởng về sự sinh sôi nảy mở. Màu xanh của cỏ non gợi sức sống mạnh mẽ, bất diệt, không gian mênh mông, thoáng đạt, trong trẻo. Trên nền xanh ấy có điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng. Văn cổ thi Trung Quốc được Nguyễn Du học tập một cách sáng tạo ” Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu hai câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh ” phương thảo” ( cỏ thơm) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng ” cỏ non” thiên về màu sắc: màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi thắm hợp với màu xanh lam của nền trời làm thành gam nền cho bức tranh. Trên đó điểm xuyến sắc trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa lê tạo thành bức tranh đẹp hài hòa, tươi mát, mới mẻ. Chữ ” trắng” được Nguyễn Du thêm vào và đảo lên trước càng gây ấn tượng mạnh, Chữ ” điểm” làm cho cảnh vật trở nên có hồn, sinh động chứ không tĩnh lại hay gợi lên bàn tay họa sĩ – thi sĩ vẽ lên thơ lên họa như bàn tay tạo hóa điểm tô cảnh xuân tươi khiến cho bức tranh càng trở nên sinh động. Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, nghệ thuật phối sắc tài tình, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả thể hiện tâm hồn người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng – một không gian thoáng đãng mà ấm áp của mùa xuân, một màu sắc tinh khôi mãi để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Mùa xuân là mùa khởi đầu trong một năm là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người phơi phới, mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội diễn ra nhiều nhất, trong thơ của Nguyễn Du, đó là khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trảy hội tưng bừng, náo nhiệt:

” Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”

Tác giả đã đưa ta về với lễ nghi phong tục tập quán của người phương Đông, lễ tảo mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh tri ân với quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương để tưởng nhớ người đã khuất, Còn ” hội đạp thanh” là cuộc du xuân là cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú, hội đạp thanh còn là cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng cho mai sau. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả đã gợi tả không khí lễ hội bằng một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy ” nô nức”, ” dập dìu” ” sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, ” giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” ” gần xa”, ” yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước.

” Dập dìu tài tử giai nhân”

Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Lễ thanh minh – lễ hội điển hình vào tháng ba, từng đôi lứa ” tài tử giai nhân” ” dập dìu” du xuân, gặp gỡ hò hẹn. Trong dòng người “nô nức” đó có ba chị em Thúy Kiều cũng sắm sửa hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh thật giản dị ” ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, gợi tả không khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân trong bộ áo quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim hoàng anh ríu rít bay về hội tụ trong lễ hội. Tác giả còn miêu tả một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của Việt nam chúng ta trong ngày Tết thanh minh. Đó là sắc thoi vàng, đốt giấy tiền để tưởng nhớ người thân đã khuất:
” Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó sắc tro tiền giấy bay”

Nhịp điệu thơ 2/4 và 4/4 thoáng ra một nét buồn. Phải chăng đó là trái tim đầy tình thương sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du đối với những người đã khuất. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian, đầy ắp nghĩa tình. Dưới ngòi bút miêu tả tinh tế của nhà thơ, lễ và hội trong tiết thanh minh là một sư giao hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

Nếu như những dòng thơ trên phác họa khung cảnh nhộn nhịp, đông vui của lễ hội thì sáu câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu trữ tình man mác buồn theo từng bước chân của chị em Thúy Kiều:

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dạng tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốc quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Hội tan sao chẳng buồn? có thể nói sáu câu trên đã diễn tả sâu sắc cảnh chị em Thúy Kiều trên đường trở về với một khung cảnh yên ả, dường như đối lập với cảnh lễ hội lúc trước. Cảnh mang nét thanh thanh, dìu dịu của buổi chiều xuân với nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu bắc ngang như nhuộm màu tâm trạng. Bóng dương đã chênh chếch xế tà, ” tà tà” bóng ngả về tây” nhưng đây không phải là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm vào cảm giác bâng khuâng, khó tả. Buổi chiều tà thường gợi lên một cảm giác buồn khó tả. Ở đây, cuộc vui đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã hết, tâm hồn con người cũng ” chuyển điệu” cùng cảnh vật, Dưới cái tài miêu tả của Nguyễn Du, không khí lễ hội lúc tan không ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh ịu, lặng lẽ mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt dần, nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân thơ thẩn trên dặm đường về, phảng phất nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều đều thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu, đa cảm bằng hàng loạt các từ láy ” tà tà”, ” thanh thanh”, ” nao nao” ” nho nhỏ” vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Và đúng như vậy, Thúy Kiều đã gặp nấm mồ bất hạnh ” Đạm Tiên” – một ca nhi tài sắc mà mệnh yểu và cả sự ngẫu nhiên gặp chàng nho sinh ” phong tư tài mạo tót vời”- Kim Trọng, để rồi ” tình trong như đã mặt ngoài còn e” như một định mệnh tiền duyên, rõ ràng cảnh đã nhuốm màu tâm trạng của nhân vật. Như vậy sáu câu thơ cuối của đoạn trích với việc sử dụng từ láy đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình- cảnh gắn với tình – cảnh tình tương hợp đã làm cho lòng người hòa vào cảnh vật như đang lắng lại cùng cảnh vật. Từ đó, ta thấy được tâm trạng nhạy cảm cùng niềm vui cuộc sống của tác giả.

Tóm lại, bằng cách sử dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả, đoạn trích ” cảnh ngày xuân” xứng đáng là bức tranh đẹp vào loại bậc nhất, tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm ” Truyện Kiều”. Đồng thời, với cây bút miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du, cảnh vật hiện lên tươi đẹp, trong sáng và còn nhuộm màu tâm trạng, đây là yếu tố tạo nên thành công của đoạn trích và đưa tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du đến gần với bạn đọc khắp năm châu ở mọi thếkỷ.

CỎ NON XANH TẬN CHÂN TRỜI

Chẳng biết là bao giờ, mùa xuân đã có sức thu hút kì diệu với lòng người đến vậy. Xuân tuyệt diệu, xuân trẻ trung, tinh khiết đã làm say lòng các thi nhân, văn sĩ. Đã có biết bao áng thơ, áng văn, biết bao bản nhạc ca ngợi mùa xuân nhưng bức tranh xuân chắc hẳn sẽ kém đi sự huyền diệu nếu không có Cảnh ngày xuân trong thơ đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh tuyệt diệu của mùa xuân để lưu truyền cho muôn đời:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Mở đầu bức tranh xuân, tác giả thông báo trực tiếp về thời gian:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi ra các cách hiểu khác nhau. “Con én đưa thoi” có thể hiểu là những cánh cò chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, bởi chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, "con én đưa thoi” còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách hai thì câu thơ "Ngày xuân con én đưa thoi không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi vội vàng của thời gian. Cách hiểu này dường như rất lô gích với câu thơ tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Nhà thơ Nguyễn Du đã đưa ra những con số rất cụ thể. Mùa xuân có chín mươi ngày thì đã trôi đi quá nửa (đã ngoài sáu mươi). Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân vốn đến và đi theo quy luật của tự nhiên bao giờ vẫn thế nhưng ở đây nhà thơ đã nhìn dưới cái nhìn tâm lí mang màu sắc chủ quan nên mùa xuân cũng trở nên sống động. Ta bắt gặp sự gần gũi trong cách cảm nhận thời gian của đại thi hào Nguyễn Du với ‘‘hoàng tử thơ ca" Xuân Diệu sau này. Nhà thơ Xuân Diệu của thời thơ mới trước mùa xuân tươi đẹp cùng đã có những dự cảm về sự tàn phai, nuối tiếc:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

(Xuân Diệu - Vội vàng)

Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước đi mùa xuân giữa hai nhà thơ cách nhau mấy thế kỉ thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của những hồn thơ kiệt xuất. Chỉ có những người biết yêu, biết quý trọng thời gian mới có thể cảm nhận được sự chảy trôi, vận động tế vi đến như vậy.

Nếu như hai câu đầu, Nguyễn Du nghiêng về miêu tả thời gian thì hai câu sau nhà thơ tập trung miêu tả cảnh sắc:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã làm sống dậy một bức tranh xuân căng tràn nhựa sống. Tất cả cảnh vật đều được miêu tả ở trạng thái viên mãn nhất. Cỏ non xanh tận chân trời, màu xanh của cỏ tiếp nối với màu xanh của trời như trải ra ngút ngàn. Màu xanh vốn là màu của sự sống, hơn nữa đây là xanh non, xanh lộc biếc nên sự sống lại càng tràn trề, trào dâng. Nguyễn Du không phải là nhà thơ đầu tiên miêu tả cỏ xuân, trước ông. nhà thơ Nguvễn Trãi đã viết trong bài Bến đò xuân đầu trại:

Độ đầu xuân thảo lục như yên,

Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên

(Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời)

Nếu Nguyền Trãi sử dụng thủ pháp so sánh “thảo lục như yên" để miêu tả về xuân như mờ ảo, sương khói trong ngày mưa nơi bến đò thì Nguyễn Du lại vẽ trực tiếp bức tranh cỏ xuân. Chỉ với câu thơ: “Có non xanh tận chân trời", ông đã đem đến cho người đọc cảm nhận về hình ảnh, màu sắc, đường nét, sức sống của cỏ... Tất cả đều hài hòa, lắng đọng trong chiều sâu câu thơ 6 chữ tạo nên nét xuân riêng rất Nguyễn Du. Cái tài của đại thi hào không dừng ở đó, bức tranh cỏ xuân xanh biếc như làm nền cho sự đột phá ở câu thơ tiếp theo:

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân.

Chính điều này đã khiến câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du tạo được dấu ấn riêng sắc nét so với câu thơ cổ của Trung Quốc:

Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa

Câu thơ “Lê chi sổ điểm hoa” (Trên cành lê có mấy bông hoa) chỉ đơn giản là lời thông báo, không có sự hòa quyện màu sắc giữa sắc màu hoa lê với sắc màu “cỏ thơm” ở câu đầu. Trái lại, câu thơ của Nguyễn Du là sự hòa quyện, kết hợp màu sắc tạo nên nét thần thái của cảnh vật. Tác giả đã rất tinh tế khi lựa chọn màu sắc cho bức tranh xuân của mình. Đó là xanh và trắng - những sắc màu trinh nguyên, thanh khiết, giàu sức sống, tiêu biểu cho mùa xuân. Ta nhận ra rằng Nguyễn Du không chỉ là đại thi hào trong lĩnh vực thơ ca mà cũng là bậc thầy trong lĩnh vực hội họa. Hai câu thơ tả cảnh thực sự là những câu thơ tuyệt bút.

Đã bao mùa xuân trôi đi, đã có bao áng thơ văn về mùa xuân ra đời nhưng bốn câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du thì vẫn trường tồn cùng thời gian, không gì có thể thay thế. Đó thực sự là bức tranh xuân vĩnh cửu cùng đất trời và lòng người.

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2019

CẢNH NGÀY XUÂN

Cảnh ngày xuân
I. Kiến thức trọng tâm
1.Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tái hiện cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em K iều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc “bộ hành chơi xuân” của chị em Thúy Kiều.
2. Bố cục đoạn trích:
- Bốn câu đầu: Khung cảnh mùa xuân
- Tám câu tiếp: Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh
- Sáu câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
3. Nội dung và nghệ thuật
1.Nội dung:
+ §o¹n th¬ khắc họa bøc tranh thiªn nhiªn, lÔ héi mïa xu©n t¬ư¬i ®Ñp, trong s¸ng
+ qua đó ta cảm nhận được Tình yªu thiªn nhiªn, yªu CS tha thiÕt, sự am hiÓu t©m lÝ vµ tấm lòng tr©n träng con ngưêi của nhà thơ.
=> C¶m høng nh©n v¨n s©u s¾c cña t¸c giả
2.Nghệ thuật:
+ Tõ ng÷ tinh tÕ, chọn läc, h×nh ¶nh gîi t¶, gîi c¶m
+ Bút pháp chấm phá
+ Ngòi bút miªu t¶ giµu chÊt t¹o h×nh
ĐỀ LUYỆN TẬP
Cảm nhận của em về đoạn trích Cảnh ngày xuân
I.MB:
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca từ xưa đến nay. Các thi sĩ đến với thiên nhiên để hòa mình vào đất trời cây cỏ, gửi gắm tâm tư vào mỗi bức tranh ấy. Trong TK của ND thiên nhiên có một vị trí đặc biệt, như Hoài Thanh đã nhận xét:Có thể nói thiên nhiên trong TK cũng là một nhân vật- một nhân vật thường kín đáo lặng lẽ nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn thấm đượm tình người. Đoạn trích Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn thơ miêu tả thiên nhiên tiêu biêu nhất trong TK.
II.Thân bài:
1. Khái quát về tác giả tác phẩm:
-Tác giả ND
-Vị trí đoạn trích
2. Phân tích CM
a.VÎ ®Ñp cña thiªn nhiªn ngµy xu©n
Hai c©u th¬ ®Çu ®• giíi thiÖu khái quát vÒ mét ngµy xu©n t­¬I ®Ñp:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
- Chỉ bằng vài nét chấm phá, câu thơ mở đầu vừa miêu tả không gian vừa gợi về thời gian. Không gian mùa xuân được gợi lên bởi hình ảnh những cánh én dập dìu chao liệng như thoi đưa trên bầu trời. Đây chính là loài chim quen thuộc của mùa xuân. Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi lên trước mắt người đọc về một không gian bao la, khoáng đạt, rộn ràng sắc xuân.
- Cả đất trời được nhuộm bởi ánh“thiều quang”- ánh sáng tươi đẹp ấy mang lại cho mùa xuân một sức sống căng tràn. Kh«ng gian đang ngËp trµn ¸nh s¸ng t­¬i ®Ñp Êm nång, ¸nh sáng mïa xu©n mang s¾c th¸i riªng, kh«ng nãng bøc nh­ mïa hÌ, còng kh«ng dÞu buån nh­ mïa thu, mµ t¹o c¶m gi¸c t­¬i vui, trÎ trung, Êm ¸p cña nh÷ng ngµy ®Çu n¨m. ¸nh s¸ng “thiều quang” không chỉ gợi lên cái màu hồng của nắng xuân, cái ấm áp của khí xuân mà còn gợi lên cái mênh mông bao la của đất trời mùa xuân.
- Cánh én đưa thoi còn diễn tả bước đi thấm thoắt của thời gian. Mùa xuân tươi đẹp trôi nhanh như cánh én vụt bay. Và quả thực, những ngày xuân trong sáng, đẹp đẽ ấy đã qua sáu mươi ngày, và giờ đã là tháng Ba. Mïa xu©n t­¬i ®Ñp nh­ng qu¸ ng¾n ngñi khiÕn lßng ng­êi kh«ng khái xao xuyÕn b©ng khu©ng. C©u th¬ không chỉ t¸i hiÖn khung c¶nh mïa xu©n t­¬i ®Ñp, mà còn biÓu hiÖn niÒm tiÕc nuèi tr­íc b­íc ®i ©m thÇm mµ nhanh chãng cña thêi gian…
* Hai câu thơ sau mới thật là bức họa tuyệt mĩ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Ngòi bút miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Ph«ng nÒn cña bøc tranh xu©n lµ th¶m cá xanh non tr¶i ra mªnh mang ®Õn tËn ch©n trêi. Cá non lµ cỏ tươi mới xanh non vµ bõng bõng søc sèng, khi giã xu©n nhÑ nhµng thæi, n¾ng xu©n Êm ¸p, m­a xu©n lÊt phÊt r¬i th× c©y cá cùa m×nh thøc dËy ®©m chåi nÈy léc. Mïa xu©n ®• kho¸c cho ®Êt trêi mét tÊm ¸o míi . C¶nh vËt mïa xu©n thËt míi mÎ, tinh kh«i vµ c¨ng trµn søc sèng…
- Tõ tËn ®­îc sö dông thËt tinh tÕ, màu xanh của cỏ hòa cùng với sắc xanh của trời gợi mở kh«ng gian bao la, kho¸ng ®¹t vµ vÎ ®Ñp trong trÎo cu¶ mïa xu©n.( Nhµ th¬ Hµn M¹c Tö còng tõng viÕt:
Sãng cá xanh t­oi gîn tíi trêi
Bao c« th«n n÷ h¸t trªn ®åi
- Điểm xuyết trên nền xanh bất tận ấy là sắc trắng của hoa lê nở lác đác khoe sắc, khoe hương. Thật là một sự hài hòa tuyệt diệu về màu sắc. Tuy chỉ là một vài chấm nhỏ trên bức tranh nhưng lại là điểm nhấn tỏa sáng và làm nổi bật bức tranh mùa xuân- một vẻ đẹp trong sáng và thanh khiết đến vô cùng. Bút pháp chấm phá và nét vẽ tài hoa của nghệ sĩ thiên tài đã tạo ra một bức tranh mùa xuân tuyệt mĩ.
-Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa”, ND đã viết nên một câu thơ tuyệt bút. Ở đây có sự kế thừa và sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ . Câu thơ của TQ thiên về mùi vị(phương thảo….hương thơm của cỏ , màu xanh của trời) đã được N D viết thành cỏ non xanh, thiên về màu sắc và sức sống tươi non.
- Đặc biệt, Nguyễn Du chỉ thêm một chữ “trắng” cho cành lê mà bức tranh mùa xuân đã khác. Từ trắng được đảo lên trước thành “trắng điểm” đã tạo nên điểm nhấn cho bức tranh, tô đậm sắc trắng của hoa lê nổi bật trên nền xanh non của cỏ. Chỉ với một từ điểm thôi đã khiến cho sự vật vốn vô tri trở nên sống động, có hồn như có bàn tay của người họa sĩ – tạo hóa điểm tô cho cảnh xuân thêm tươi, thêm đẹp. Không gian như khoáng đạt,trong trẻo và nhẹ nhàng hơn, cảnh đẹp mà có hồn, chứ không tĩnh tại. Ta nh­ c¶m nhËn ®­îc sù lay ®éng cña l¸ cµnh, cña sự sèng ®ang trµn trÒ m•nh liÖt.Thiên nhiên mùa xuân muôn đời vẫn tươi đẹp nhưng dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ thiên tài nó vẫn lấp lánh một vẻ đẹp riêng làm say đắm lòng người. Quả đúng là: Trái đất không chỉ tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ thiên tài xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.
- Chỉ với hai câu thơ, bằng một vài nét chấm phá, mà thi nhân đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, diễm lệ và hấp dẫn lòng người. Phải là người có tâm hồn tinh tế nhạy cảm , tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết , thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình.
2. Khung c¶nh lÔ héi
Trong tiết Thanh minh đầy chất thơ ấy xuất hiện khung cảnh lễ hội tưng bừng rộn rã:
Thanh minh …………..nh­ nªm
- §o¹n th¬ t¸i hiÖn mét khung c¶nh lÔ héi quen thuéc cña lµng quª. Trong tiÕt thanh minh diÔn ra 2 lÔ héi liªn tiÕp: t¶o mé vµ ®¹p thanh.LÔ t¶o mé là ng­êi ng­êi ®i viÕng thăm và söa sang phần mộ của người thân, tổ tiên , tìm về những bóng hình trong quá khứ theo truyền thống uống nước nhớ nguồn. §ã cßn lµ héi ®¹p thanh- nghÜa lµ trë vÒ miÒn quª, më c¨ng lång ngùc hÝt thë kh«ng khÝ trong lµnh, b­íc ch©n trÇn dÉm lªn cá ­ít c¶m nhËn ®­îc tÊt c¶ c¸i trong trÎo cña thiªn nhiªn ë chèn lµng quª th«n d••. Lễ hội này cũng là nơi các chàng trai, cô gái gặp gỡ, làm quen và rất có thể dẫn đến những sợi tơ hồng kết duyên mai sau.
- Lễ và hội trong tiết thanh minh là 2 sinh hoạt văn hóa khác biệt, nhưng trong thơ ND lại có sự giao hòa độc đáo. Điệp từ “là” nói lên sự nối tiếp liên tục của không khí tươi vui, nhộn nhịp, rộn ràng trong ngày lễ hội.
- Khung cảnh lễ hội được gợi lên qua hàng loạt những từ ghép, từ láy giàu sắc thái biểu cảm; các danh từ: “yến anh”, “chị em”, tài tử“giai nhân” , các động từ sắm sửa”, “dập dìu”, các tính từ gần xa, nô nức . Tất cả làm nổi bật không khí lễ hội đông vui, rộn ràng, náo nức; t©m tr¹ng v« cïng vui t­¬i, h¸o høc cña con người. Niềm vui lễ hội đang bao trùm cả nhân gian...
- Cách nói ẩn dụ: yến anh gợi tả từng đoàn người n« nøc du xu©n nh­ chim yÕn, chim oanh rÝu rÝt. Trong lÔ héi mïa xu©n, nhén nhÞp nhÊt lµ nh÷ng nam thanh n÷ tó, nh÷ng tµi tö giai nh©n vai s¸nh vai, ch©n nèi ch©n cïng nhÞp b­íc. Họ chÝnh lµ linh hån, lµ vÎ ®Ñp cña cña ngµy héi mïa xu©n. C©u th¬ ChÞ em s¾m söa…. xu©n cßn gióp ta c¶m nhËn ®­îc nh÷ng tr«ng mong, chê ®îi cña chÞ em KiÒu.
-CÆp tiÓu ®èi: ngùa xe/ nh­ nªm ®• kh¾c ho¹ râ nÐt th¸i ®é h¨m hë, say mª cña tuæi trÎ. Hä ®Õn víi lÔ héi b»ng c¶ niÒm yªu ®êi, vui sèng cña tuæi thanh xu©n. Trong ®¸m tµi tö giai nh©n ®ã cã chÞ em KiÒu. Cã lÏ NguyÔn Du ®• miªu t¶ c¶nh lÔ héi b»ng ®«i m¾t vµ t©m tr¹ng cña hai c« g¸i ®Õn tuæi cËp kª tr­íc c¸nh cöa cuéc ®êi réng më... V× thÕ bao h¸o høc, bao tr«ng ®îi trµn ngËp t©m hån.
*Và tất nhiên, tả lễ hội trong tiết Thanh minh thì không thể thiếu một phong tục rất quen thuộc :
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Phong tục cổ truyền đã có từ nghìn xưa được Nguyễn Du đưa vào câu thơ thật sinh động. “Ngổn ngang gò đống” không chỉ gợi tả cảnh những ngôi mộ mà còn muốn nói đến những đống tro tàn vương vãi khắp nơi trên mặt đất. Đi tảo mộ, không thể không rắc thoi vàng vó, đốt tiền vàng mã, để tưởng nhớ những người đã khuất. Trong cảnh tượng khói bay trầm mặc ấy như đang ẩn chứa những lời thì thầm vọng về từ quá khứ, từ ông bà tổ tiên. Sự cách trở âm dương tưởng chừng như bị xóa nhòa, quá khứ được kéo gần hơn tới hiện tại trong không gian thiêng liêng đầy thành kính ấy.
-. ChØ b»ng vµi nÐt vÏ ph¸c th¶o ND ®• lµm sèng l¹i c¶ nh÷ng nÐt ®Ñp v¨n ho¸ ngµn ®êi cña ng­êi ph­¬ng ®«ng nãi chung vµ d©n téc VN nãi riªng. Đằng sau câu chữ ta cảm nhận được tình cảm yêu quý, trân trọng của thi nhân với các vẻ đẹp và giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
3. C¶nh chÞ em KiÒu du xu©n trë vÒ:
- Cuộc vui rồi cũng đến hồi kết thúc. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều ra về khi trời đã xế chiều và hội đã tan:
"Tà tà bóng ngả về tây,
…………………
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang" ...
- Cảnh chiều xuân vẫn rất đẹp nhưng thoáng buồn. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt,khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, không khí nhộn nhịp , rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần.
- Tác giả sử dụng hàng loạt từ láy không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Th¬ thÈn là bước chân dùng dằng, lưu luyến chất chứa nỗi niềm nuối tiếc bâng khuâng của lòng người khi ngày vui chóng qua! Tõ l¸y nao nao lµ s¾c mµu c¶nh vËt, cũng lµ t©m tr¹ng gi¨ng m¾c xao xuyến cña KiÒu hay lµ cảm giác bồn chồn, bất an, những linh c¶m m¬ hå vÒ mét ®iÒu g× ®ã kh«ng mÊy tèt lµnh s¾p x¶y ra. Cử chỉ “dan tay” của người thiếu nữ như để chia sẻ một nỗi buồn khó diễn tả thành lời. Nỗi niềm xao xuyến bâng khuâng đó hé mở tâm hồn nhạy cảm sâu lắng của người thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn, khung cảnh thiên nhiên vì thế đã nhuốm màu tâm trạng con người’
- Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
3. §¸nh gi¸ kh¸i qu¸t :
-Qua đoạn trích một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật và việc sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du.
-Bằng từ ngữ chọn lọc tinh tế, hình ảnh gợi tả, gợi cảm, bút pháp chấm phá, ngòi bút miêu tả giàu chất tạo hình, …đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng.
- -- LÊp l¸nh sau líp vá ng«n tõ lµ nhÞp ®Ëp cña mét tr¸i tim chan chøa yªu th­¬ng cña ND. §ã lµ con ng­êi cã t©m hån yªu thiªn nhiªn, yªu CS tha thiÕt vµ ®Æc biÖt lµ «ng rÊt am hiÓu t©m lÝ vµ tr©n träng con ng­êi. §ã lµ c¶m høng nh©n v¨n s©u s¾c cña thi nh©n
III. Kết bài
"Cảnh ngày xuân" là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, "Cảnh ngày xuân" sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.

Thiên nhiên trong Truyện Kiều - Nguyễn Du

Thiên nhiên trong Truyện Kiều - Nguyễn Du
Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương trong kho tàng văn học dân tộc. Đọc Truyện Kiều, chúng ta không chỉ thấy được chủ nghĩa nhân đạo thắm thiết của Nguyễn Du qua những thân phận con người mà còn được chiêm ngưỡng những nét đẹp của con người, cuộc sống, thiên nhiên tạo vật. Và thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là đối tượng miêu tả vừa là phương tiện biểu hiện.Nguyễn Du rất tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện. Nhà thơ luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Đó có thể là cảnh ngày xuân tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống như chính chị em Thúy Kiều thời ấm êm :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
Đó có thể là cảnh hoang sơ, lạnh lẽo, vắng vẻ, mênh mông, rợn ngợp, đượm buồn trước lầu Ngưng Bích khi Thúy Kiều bước chân vào con dường lưu lạc :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
(Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Thiên nhiên- một thế giới tuyệt đẹp hiện lên trong Truyện Kiều, được nhìn qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, thấm đượm yêu thương của Nguyễn Du.Nguyễn Du xây dựng thiên nhiên không chỉ là cái bình phong, là hình thức để ông ngụ tình. Thiên nhiên trong Truyện Kiều còn là đối tượng có vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn qua đó Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với cuộc sống, con người.
Nguyễn Du đã hoạ được bằng thơ cái thần của thiên nhiên trong sáng tác của mình. Bức tranh mùa xuân là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bằng an. Đó là cảnh sắc phới phới sức xuân trong “ Cảnh ngày xuân”:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh đầy sức sống được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật trước ngưỡng cửa tình yêu.Bức tranh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp và trong sáng ,cảnh xuân mang một vẻ đẹp mơi mẻ tinh khôi sinh động .có hồn ,đầy sức sống,khoáng đạt trong trẻo nhẹ nhàng thanh khiết. Cảnh chủ yếu được tả thực với nét chấm phá đầy sức gợi (từ điểm ) ,những từ ngữ giàu chất tạo hình. Bốn câu thơ mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc hữu hương hữu tình nên thơ được mở ra. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa thoi. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình gợi cảm vút qua vút lai chao liệng để diễn tả thời gian trôi nhanh mùa xuân đang trôi nhanh. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân “Thiều Quang” của mùa xuân chín chục đã ngoài sáu mươi.“Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ : tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi, mùa xuân đã bước sang tháng ba ánh sáng của mùa xuân hồng ấm áp. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy : “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc : “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, thật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.
Thiên nhiên còn là một ẩn dụ để Nguyễn Du tả tình cảm của ông với con người, thế nên thiên nhiên ấy thắm đượm tình người. Tả cảnh ngụ tình là một trong những phương pháp quen thuộc và hiệu quả của các nhà văn, nhà thơ từ xưa tới nay. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một thứ bút pháp để Nguyễn Du miêu tả và khắc hoạ số phận, tính cách và nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhan vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu sắc. Bức tranh trước lầu Ngưng Bích là bức tranh nét nên thơ nhưng bao la buồn vắng cô đơn như cảnh ngộ nàng Kiều :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
(Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh buồn bã lạnh lẽo được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật trước số phận phong ba. Ngoại cảnh phản chiếu tâm trạng suy nghĩ của nàng Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật và tâm tình tìm được tiếng nói chung, tiếng nói của một trái tim đơn côi, một tâm hồn lạnh lẽo Điều đó thể hiện qua cái rợn ngợp của không gian đa chiều ( rộng ,cao ,xa )các hình ảnh vừa thực vừa vừa ước lệ (non xa ,trăng gần ,cát vàng ,bụi hồng ).
Ở một mình chốn lầu Ngưng Bích bơ vơ trơ trọi, với lời dụ dỗ ngọt ngào của bọn buôn người bất nhân. Nàng bị Tú Bà giam ở lầu Ngưng Bích cách biệt hẳn với cuộc sống bên ngoài
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Hai từ “khóa xuân” mang đầy vẻ mỉa mai, trách móc. Kiều bị đem ra lầu Ngưng Bích giam lỏng. Trong cảnh ngộ cô đơn éo le ấy, nàng chỉ còn biết trải lòng mình lên cảnh vật, gửi gắm tâm hồn vào thiên nhiên, lắng nghe tiếng thổn thức phát ra từ tận đáy con tim. Cảnh tượng nơi lầu Ngưng Bích này thật đẹp: có núi non xa, vầng trăng gần đều hút chung vào tầm mắt. Hai từ ngữ đối lập “xa – gần” cùng từ “ở chung” như góp phần hoàn thiện thêm cái cạnh tượng thật nên thơ nhưng cũng thật quạnh quẽ phía trước lầu. Trông ra bốn bề, nàng thấy một không gian rộng lớn bát ngát hiện lên.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Người đọc chỉ thấy cảch thiên nhiên trước mặt nàng , phía xa xa kia là núi .Trên đầu nàng là tấm trăng lạnh lẽo.Xung quanh nàng là bốn bề bát ngát .Từ láy “bát ngát ”gợi cho người đọc hình dung thấy , không gian nơi lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, phẳng lặng không một bóng người. Phải chăng những cảnh vật tĩnh lặng này càng làm nổi bật lỗi cô đơn của Kiều.Nghệ thuật đảo ngữ ở đây làm ta cảm nhận rõ hơn cái rộng lớn của cảnh vật, cũng như cái trống trải của tâm hồn Thúy Kiều. Nhìn xa nhìn gần là ngổn ngang những cồn cát vàng trải dài vô tận, là những dặm bụi hồng xa xôi ngút ngàn. Phải chăng sự ngổn ngang của cảch vật cũng chính là sự ngổn ngang của lòng nàng Kiều. Các vế câu đối xứng nhau cùng những cặp từ “nọ - kia, xa – gần” như đợt sóng dồi tầng tầng lớp lớp trong tâm trí, xô đẩy thêm nữa cái tâm trạng lộn xộn của người con gái. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả thật vô cùng đặc sắc, diễn tả thật cảm động nỗi buồn và tình cảnh éo le của Kiều. Tình cảnh nàng Kiều lúc này thật chẳng khác gì sống trong địa ngục: thân xác bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, tâm hồn bị giam cầm trong vòng xoay khép kín của thời gian sớm - tối, và tình cảm thì bị giam hãm trong mớ tơ lòng rối bời. Phận nàng mới đáng thương làm sao! Bức tranh đầy ám ảnh, thấp thỏm, đầy sự vần vũ, thảng thốt, rợn ngợp để Nguyễn Du đồng cảm cùng nàng Kiều bé nhỏ, trơ trọi, kinh hoàng, vô vọng trước biển
Ngòi bút Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong nền thơ ca dân tộc. Thiên nhiên có mặt, trở thành bút pháp đã góp phần thể hiện sâu sắc âm vang những nghĩ suy của Nguyễn Du về con người.Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du cho thấy một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, yêu tạo vật, một linh hồn “ mang mang thiên cổ”, một sự nhạy cảm, tinh tế, tài hoa khác thường. Sáng tác của Nguyễn Du đã dạy người đọc cách mở rộng lòng mình với tạo hoá, với cái đẹp, dạy chúng ta biết sống yêu đời.

  ĐỀ: “Một vầng trăng in trong gương Vẫn là một vầng trăng. Vầng trăng qua lòng mắt người nghệ sĩ Có thể thành vô vàn nét đẹp.” (Theo Phạm T...