Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2019

"Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ là vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật

"Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ là vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật. Nhưng hình thức nghệ thuật ấy chỉ đẹp khi được nhà thơ sáng tạo ra để chuyển tải một nội dung tư tưởng sâu sắc". Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua các tác phẩm thơ mới.

_________


Trong suốt con đường sự nghiệp văn chương của mình, nhà văn Nga Leonit Leonop luôn tâm đắc một quan điểm mới mẻ: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung”. Sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức là một trong những yếu tố quyết định nên giá trị bất hủ của tác phẩm nghệ thuật. Đó là kết quả chứa đựng tài năng, tâm huyết và sức sáng tạo không ngừng nghỉ của người nghệ sĩ. Không chỉ đem đến sự độc đáo trong văn chương, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức cũng góp phần tạo nên vẻ đẹp cho thơ ca. Bởi lẽ đó, có ý kiến cho rằng: “Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ là vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật nhưng hình thức nghệ thuật ấy chỉ đẹp khi được nhà thơ sáng tạo ra để chuyển tải một nội dung tư tưởng sâu sắc”.
“Ngôn ngữ thơ là ngôn từ, câu chữ được người nghệ sĩ mã hóa, chắt lọc từ đời sống, tạo nên tinh hoa nghệ thuật đặc sắc ; là phương tiện bật lên sức sống mãnh liệt của bài thơ. “Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ là vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật” tức là nhà thơ bằng việc khám phá, sáng tạo những hình tượng, thể thơ ,cú pháp, từ ngữ, biện pháp tu từ,… sẽ khoác thêm tấm áo mới đẹp đẽ,hấp dẫn và sinh động cho tác phẩm của mình. Nếu “hình thức nghệ thuật” được biểu hiện qua sức gợi ngôn từ thì “nội dung tư tưởng” chứa đựng những quan điểm mĩ học, cảm hứng, tâm hồn thi nhân về con người và cuộc đời; dược đúc kết từ quá trình sáng tạo của nhà thơ. Nhận định trên khẳng định vai trò của nội dung và hình thức đối với văn chương nói chung và thơ ca nói riêng: Một tác phẩm thơ giá trị phải có sự kết hợp hài hòa giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật; đồng thời đề cập đến yêu cầu đối với người nghệ sĩ là phải sáng tạo và có phong cách riêng.
Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể được biểu hiện qua mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức. Nội dung là những mảnh ghép vụn vỡ lấy chất liệu từ hiện thưc cuộc sống, khai thác bằng nghệ thuật nhằm bộc lộ tư tưởng, quan điểm người viết muốn gửi gắm. Hình thức được xây dựng nên bằng hệ thống phương tiện diễn đạt tổ chức bên ngoài cũng như nội dung bên trong tác phẩm. Nội dung bao giờ cũng quyết định hình thức còn hình thức là cách thể hiện nội dung, phù hợp với nội dung. Sự thống nhất cao độ giữa nội dung và hình thức thể hiện ở mọi phương diện trong thơ ca: ngữ âm, cú pháp,thể loại, nhạc điệu…tạo nên tác phẩm thơ giá trị.Nội dung nào- hình thức ấy. Một hình thức độc đáo,hấp dẫn sẽ phát huy tối đa chức năng bộc lộ sâu sắc nội dung nó biểu hiện, hướng người đọc đến bầu trời Chân-thiện-mĩ; ngược lại, tác phẩm chứa đựng nội dung mới mẻ, ý nghĩa sẽ lôi cuốn độc giả khám phá vẻ đẹp của hình thức, ngôn từ. Nội dung và hình thức luôn gắn liền, hỗ trợ và bổ sung cho nhau; không thể tách rời. Như câu nói của Bielinxki: “Nội dung và hình thức gắn bó như tâm hồn với thể xác”. Để tạo nên mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa hai yếu tố: hình thức, nội dung đòi hỏi nhà thơ phải có sự tìm tòi sáng tạo, có cá tính, phong cách và tiếng nói riêng. Quá trình lao động nghệ thuật là quá trình công phu, ghi nhận toàn bộ những đóng góp, hy sinh của người nghệ sĩ trên con đường hoạt động của mình. Sự sáng tạo trong thơ ca không cho phép bất cứ nhà thơ nào được dẫm lên lối mòn của người khác và đặc biệt là con đường mình đã tạo ra. Nếu chỉ biết sao chép thực tại một cách nguyên si, không thể hiện được những điều mới mẻ trong tác phẩm của mình thì đó sẽ là một sự tự sát trong văn học. Bởi “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho; văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Chỉ có như thế, họ mới sáng tạo ra những đứa con tinh thần bất hủ, những tác phẩm thơ hay, đặc sắc, có sự hài hòa thống nhất giữa “nội dung tư tưởng sâu sắc” và ‘hình thức nghệ thuật” độc đáo.
Thơ ca là tiếng nói chân thành của con người, bộc lộ tâm tư xúc cảm mãnh liệt của thi sĩ khi bắt gặp những phút giây giao cảm, rung động trước cuộc đời. Ngôn ngữ thơ chính là phương tiện biểu hiện cụ thể nhất đặc trưng của thơ ca. Chính vì vậy, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ luôn giữ vai trò quyết định nên vẻ đẹp cho tác phẩm. Với “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu mỗi từ ngữ, chất liệu làm nên hình thức, vỏ bọc bên ngoài luôn được ông trau chuốt, mài giũa; đồng thời tình cảm, tư tưởng về con người, thiên nhiên cũng được ông bộc lộ đầy đủ, chân thực và sâu sắc qua tác phẩm của mình. Trong kiệt tác Vội vàng, từng câu, từng chữ đều chở nặng ý vị tuyên ngôn, mang đậm tư tưởng mới mẻ và tràn đầy chất Xuân Diệu. Mở đầu bài thơ, thể ngũ ngôn truyền thống đã làm bật lên cái khát khao sống mãnh liệt, điên cuồng của thi sĩ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Thật kì lạ, thi vị biết bao! Cái ước muốn, khát khao của Xuân Diệu là những ước muốn hết sức phi lý, ngông cuồng: tước đoạt quyền của tạo hóa, cưỡng lại quy luật tự nhiên. Không phải vì ghét mùa xuân, cũng chẳng bởi ghét “màu nắng” hay “hương gió” mà là nhà thơ muốn “tắt, buộc” tất cả. Đơn giản chỉ vì ông khát khao giữ cho vẻ đẹp mãi mãi lên hương, tỏa sắc giữa cuộc đời, bất tử hóa cái đẹp của vạn vật thiên nhiên. Mong muốn ấy càng trở nên tha thiết hơn bao giờ hết bởi nhà thơ sử dụng liên tiếp hai chữ ‘đừng” chứa đựng một nguyện vọng sâu sắc. Có lẽ vì quá đỗi say mê, ham sống đến tột cùng, đến vô biên mà thi nhân trở nên tham lam, ích kỷ, muốn giữ lại vẻ dẹp, sự sống của tạo vật cho riêng mình. Thế nên mới có cảm giác âu lo, sợ hãi, nuối tiếc thể hiện trong từng câu chữ. Tư tưởng ấy còn thể hiện cả trong nhịp thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống thể tám chữ. Một sự chuyển đổi rất đẹp, rất lạ và rất thơ. Phải chăng hình thức sắc sảo đã nâng nội dung tư tưởng thêm phần sâu sắc:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”
Trước mắt người đọc như trải ra một bức tranh xuân tuyệt sắc, một mâm cỗ đầy, bữa tiệc lớn với thực đơn vô cùng quyến rũ. Có sự góp mặt đủ đầy vạn vật đang trong mùa yêu, độ xuân thì với “ong bướm” đắm say “tuần trăng mật”; “hoa lá, cành tơ” nở trên cỏ “đồng nội xanh rì” tràn đầy sức sống, chim yến anh ngân vang khúc nhạc “tình si”. Qua cặp mắt “xanh non, biếc rờn” và lăng kính tình yêu đầy sắc xuân như thế, Xuân Diệu như đắm đuối, miên man trong niềm hạnh phúc nơi trần thế. Nói như Hoài Thanh : “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai để xua ai nấy về hạ giới”, quả thật chí lý! Trong bốn dòng thơ đầy ắp điệp ngữ “này đây” vừa trùng điệp, vừa biến hóa. Đến câu thơ thứ chín, xuất hiện cụm từ “và này đây” như thể con người chưa thỏa, chưa đã;một cảm xúc tiếc nuối, muốn ôm trọn, tận hưởng tất cả niềm vui, sức sống đang căng tràn nhựa xuân. Nhưng đây không còn là những hình sắc cụ thể “hoa, lá, bướm, ong” mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, Tháng Giêng – những vật thể vô hình. Đối với thi nhân, thiên nhiên đã thôi không là chuẩn mực của cái đẹp, theo quan điểm của ông, vẻ đẹp con người mới thực sự là điểm tựa, là chuẩn mực cho thiên nhiên:
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.”
Con người làm chuẩn mực thẩm mĩ, mang vẻ đẹp cao quý, giá trị nhân văn sâu sắc. Ánh sáng đẹp gợi ra liên tưởng về “hàng mi” thiếu nữ đang yêu, niềm vui được mang đến bởi một vị thần. Và hơn hết là cách so sánh táo bạo, độc đáo “tháng giêng” mùa đầu tiên trong năm, “ngon” như “cặp môi gần”. Cho thấy khát khao, tận hưởng tình yêu, giao cảm mãnh liệt đến tận thể nào. Chỉ có sự so sánh ấy thì thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, tươi đẹp, con người và cảnh vật thiên nhiên mới có cơ hội giao hòa, gắn kết. Bằng tài năng văn học, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” Xuân Diệu đã bộc lộ đủ đầy, trọn vẹn tình yêu trần thế, khao khát tận hưởng cùng quan niệm mĩ học mới mẻ của mình. Xuân Diệu là nhân vật khiến cho phong trào Thơ mới như lên hương, rực rỡ,tỏa sắc giữa rừng hoa văn học nghệ thuật. Thơ mới là thơ của cái Tôi, cá nhân; khác với thơ xưa không đề cao bản ngã,cá thể. Chính bởi đặc trưng ấy, Xuân Diệu đã tạo nên một “Vội vàng” bất hủ, độc đáo với hình thức nghệ thuật đầy mới lạ, hấp dẫn: thể thơ cách tân,nhịp điệu biến đổi linh hoạt theo mạch cảm xúc nhà thơ, câu chữ phóng khoáng,âm hưởng mới mẻ không bị gò bó theo lối niêm luật,bằng trắc cuả tứ thơ Đường luật,cú pháp,đề tài tinh tế, khoa học…Nhờ đó nội dung như được đẩy lên đến tuyệt đỉnh sâu sắc. “Vội vàng” đã khẳng định phong cách sáng tạo và cái nhìn mới mẻ của Xuân Diệu về con người, tình yêu và cuộc sống. Qủa thật “Vội vàng” là một sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp của “hình thức nghệ thuật” độc đáo và “nội dung tư tưởng” mới mẻ,sâu sắc.
Khác với Xuân Diệu, tác phẩm của Huy Cận luôn vương vấn nét “ mang trang thiên cổ sầu”, đậm chất nhà thơ trước Cách mạng tháng tám. Nhưng sau giai đoạn ấy, nguồn thơ ông trở nên lạc quan yêu đời hơn, vơi bớt đi nỗi ưu tư, sầu não,muộn phiền. Trích trong tập Lửa thiêng, “Tràng Giang” xứng đáng là tác phẩm độc đáo,vừa đượm nét cổ điển lại đậm chất hiện đại của Huy Cận. “Tràng Giang” là cách nói đầy sáng tạo, gợi cho người đọc con sông không chỉ dài, mà còn rộng mênh mông và sâu tận thăm thẳm. Vần “ang” như mở rộng thêm không gian cả về bề rộng lẫn chiều sâu tạo âm hưởng dư ba cho nhan đề bài thơ. Trước cảnh bao la, rộng lớn của thiên nhiên đất trời, nổi niềm bâng khuâng, buồn bã từ cõi lòng thi nhân càng được khơi gợi mãnh liệt. Lời đề từ giản dị ấy phải chăng đã thâu tóm cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Ngay từ nhan đề ta đã thấy đậm chất cổ kính, Đường thi, đến cách sử dụng từ cũng đầy vẻ cổ điển:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Từ láy “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính và đượm nét buồn. Cách sử dụng từ láy giàu sức gợi hình, gợi tả đã bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn con người ẩn chìm sâu dưới thiên nhiên bao la, rộng lớn.Ngoại cảnh phải chăng đã ngập tràn tâm cảnh nhân vật trữ tình? Trong cảnh có sự chuyển động lững lờ, nhẹ nhàng, vô tận khiến nỗi buồn của con người cũng đầy ắp trong lòng:
“Thuyền về nước lại sâu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh đối lập “thuyền” – “nước” gợi lên sự chia lìa, xa cách khiến nỗi sầu như lan tỏa ra tận trăm ngả đất trời. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “ mấy” đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn vô hạn,khó tả. Độc đáo, sáng tạo ở tại hình ảnh “củi một cành khô”. Bởi không phải là bèo, gỗ hay một vật liệu nào khác, Huy Cận đã đặc tả hình ảnh củi khô “lạc mấy dòng” mà ai nấy đều xuýt xoa ngợi khen hết lời. Trên dòng tràng giang đầy màu sắc cổ điển ấy, thi nhân đã thả một chi tiết sống sít, chân thật đến mức chỉ có ở thơ hiện đại mà thôi! Nhà thơ đã đẩy cao tuyệt đối sự nhỏ nhoi, cô độc, cạn kiệt sức sống của “cành củi khô” – như nhấn mạnh thêm thân phận nổi trôi vô định của những kiếp người nhỏ bé,lẻ loi,tội nghiệp. Cái tôi sầu muộn, cô đơn đã tìm thấy tình yêu dạt dào,tấm lòng luôn hướng về quê hương, đất nước. Khổ cuối cùng khắc họa cảnh tượng rực rỡ, hùng vĩ khi mặt trời xuống thấp, bắt ánh sáng lên các lớp mây cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ,bóng chiều sa”
Chữ “đùn” đặc tả một sức đẩy, nội lực căng tràn mãnh liệt ở bên trong những lớp núi cứ trồi lên hết lớp này đến lớp khác. “Chim nghiêng cánh nhỏ” giữa không gian mênh mông, hùng vĩ của đất trời càng be nhỏ, đơn độc.Lòng thương nhớ quê hương cứ dợn mãi lên trong tâm hồn thi sĩ trước cảnh sông nước đìu hiu,vắng vẻ,trống trải buộc Huy Cận phải bộc bạch tâm tư thầm kín của mình:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Âm hưởng thơ Đường triền miên trong câu thơ cuối,mượn niềm nhung nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Lạc Lâu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
Thi sĩ bộc lộ tình quê đậm đà,sâu sắc hơn nhà thơ Đường bởi Thôi Hiệu phải có ‘khói sóng”trên sông mới khơi gợi được niềm thương nhớ quê nhà, còn Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh vẫn dạt dào tình yêu ngay khi đang đứng trên quê hương. Đó có lẽ là nỗi buồn thầm kín của cả một thế hể trong cảnh nước mất nhà ta…Ta bất chợt nhớ đến câu thơ trong Nam hành biệt đệ:
“Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình”
(Nước Trường Giang lặng lẽ
Tình viễn khách triền miên)
Với lối thơ thất ngôn niêm vận chặt chẽ như thể Đường luật dồi dào nhạc điệu,ngôn từ hàm súc,tinh vi.Đặc biệt là cách sử dụng điêu luyện hình ảnh mang âm hưởng cổ kính,từ láy giàu sức gợi và điển tích thơ Đường đã chuyển tải được nội dung tư tưởng sâu sắc của thi nhân: tình yêu thiên,yêu quê hương đất nước thầm kín, thiết tha. “Tràng giang”là bài thơ tiêu biểu cho sự hài hòa giữa nội dung và hình thức:Hình thức phù hợp nội dung, nội dung gắn liền hình thức.
Nhận định trên về vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca là hoàn toàn đúng đắn, xác đáng, mang ý nghĩa sâu sắc đối với nhà thơ và việc sáng tạo nghệ thuật. Một tác phẩm thơ ca giá trị, đích thực và bất hủ khi hội tụ đủ hai yếu tố nội dung sâu sắc ý nghĩa và hình thức trau chuốt,mới lạ,độc đáo. Đối với thi nhân, đòi hỏi rất nhiều cái tâm và cái tài thể hiện qua tác phẩm – đứa con tinh thần quý báu . Đồng thời đề cao cá tính sáng tạo, giọng nói riêng đối với người nghệ sĩ. Về phần độc giả cần có cái nhìn khách quan, toàn diện của thi phẩm ở hai phương diện nội dung và hình thức. Có như thế mới tạo được sự đồng điệu, gắn kết giữa người cầm bút và người tiếp nhận. Bởi “Thơ là điệu hồnđi tìm những hồn đồng điệu”.
“Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ là vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật. Nhưng hình thức nghệ thuật chỉ đẹp khi được nhà thơ sáng tạo ra để chuyển tải một nội dung tư tưởng sâu sắc” Quan điểm nghệ thuật về thơ ca nói trên đã để lại nhiều liên tưởng,suy ngẫm cho người tiếp nhận cũng như người cầm bút. Như Đinh Gia Trinh từng nhận định: “Nội dung và hình thức liên lạc với nhau như máu cùng huyết quản”. Những tác phẩm thơ có hình thức hấp dẫn hòa quyện trong nội dung sâu sắc chắc chắn sẽ bất tử hòa trong lòng người đọc và đánh dấu một dấu mốc quan trọng cho sự nghiệp sáng tác của người nghệ sĩ.
Nguyễn Thị Hoa, Lớp 11B6 – Trường THPT ChâuThành, Tp Bà Rịa, đăng trên Viết văn học trò 3/2018

Cái nhìn từ sự đa chiều trong Truyện Kiều

                                                                                          

Tự sự không chỉ giản đơn là kể chuyện mà còn truyền cho người nghe, nguời đọc cảm giác được chứng kiến, được nhìn ngắm sự việc và con người, được cảm xúc với diễn biến, tình thế, vì thế điểm nhìn tự sự có ý nghĩa rất quan trọng. Bất cứ tự sự nào cũng đều có người kể chuyên mang nhiều loại điểm nhìn đến cho người đọc. Truyện Kiều là một truyện thơ, một tác phẩm tự sự, thế nhưng lâu nay các nhà nghiên cứu ít bỏ công nghiên cứu đặc sắc của nó từ phương diện này. Nói đến tác phẩm Truyện Kiều thì người ta hoặc tóm tắt truyện theo chương mục, hoặc so sánh sự thêm bớt giữa truyện Tàu và Đoạn trường tân thanh. Xem cách tả cảnh, tả tình, miêu tả tâm lí, khắc hoạ nhân vật sao cho giống, cho hệt, cách sử dụng từ ngữ khéo léo, tài tình thế nào, xem đó như là những yếu tố riêng biệt. Điều đó là cần thiết, song nghệ thuật là thế giới điểm nhìn được thể hiện ra một cách toàn vẹn. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong truyện cũng ít được xem xét. Đó là vì lí thuyết điểm nhìn mới có ở phương Tây trong khoảng từ những năm 20 đến những năm 70 thế kỉ XX. Tuy nhiên tự sự học phương Tây thiên về phân tích điểm nhìn người kể và điểm nhìn nhân vật có tính kĩ thuật, nhưng cần nhìn nhận điểm nhìn trong văn bản tự sự theo một quan điểm rộng rãi hơn. Theo Thi pháp học kết cấu của nhà kí hiệu học Nga Boris Uspenski thì điểm nhìn tự sự còn bao gồm điểm nhìn tư tưởng hệ, điểm nhìn không gian, thời gian, điểm nhìn tâm lí, điểm nhìn ngôn ngữ (hoặc quán ngữ, phrazeologie). Theo chúng tôi, cần xem xét điểm nhìn thể loại, bởi mỗi thể loại có một kiểu điểm nhìn riêng. Ví như tự sự sân khấu chỉ cho người xem nhìn thấy một phía trước, là phía người ngồi xem, không được xem từ phía cánh gà. Như thế diễn viên dù nói với ai cũng đều không thể quay lưng về phía người xem. Truyện phật thoại truyện giáo huấn chỉ được nhìn theo đối lập thiện ác, kẻ ác dù ác thế nào đều có thể “phóng hạ đồ đao, lập địa thành phật” (buông dao sát sing, lập tức thành phật), nhưng không thể có chuyện ngược lại, người đã thành phật không thể trở thành kẻ ác. Tam quốc diễn nghĩa cũng chỉ có chuyện trung vua nhất quán, không có điểm nhìn ngược lại. Điêu Thuyền chỉ biết hi sinh cho liên hoàn kế của Vương Tư đồ, không có mảy may suy nghĩ riêng tư, thiếu hẳn điểm nhìn cá thể.
Xét về mặt này Truyện Kiều là một tác phẩm tự sự đặc biệt, tự sự đa điểm nhìn hay điểm nhìn nhiều chiều. Mới nhìn thì có vẻ mâu thuẫn, những xem kĩ thì lại thống nhất rất tinh vi. Truyện Kiều trước hết là một tác phẩm truyện thơ Nôm, sáng tác trên cơ sở một tiểu thuyết văn xuôi chương hồi của Trung Quốc, cho nên trước hết nó mang trong mình vừa con mắt thơ của truyện thơ, vừa con mắt văn xuôi đậm chất tiểu thuyết.  Thứ hai, Truyện Kiều vừa mang quan điểm đạo đức quan phương trung hiếu tiết nghĩa, vừa mang quan điểm của người dân bị chà đạp và khao khát muốn tháo cũi sổ lồng, cho nên chứa đựng nhiều mâu thuẫn mới lạ, sảng khoái. Thứ ba, Truyện Kiều mang tư duy tu từ của lối sáng tác theo câu chữ, hình ảnh có sẵn, vừa mang tư duy có tính cá thể hiện đại tươi mới. Thứ tư, Truyện Kiều vừa tao nhã, quý phái vừa thế tục, suồng sã. Truyền Kiều vừa kết tinh tinh hoa tiếng Việt dân dã, trữ tình, vừa bao gồm tinh hoa ngữ liệu Hán với rất nhiều điển cố thơ văn cổ điển. Thứ năm, Truyện Kiều về triết lí, vừa có quan điểm nho gia, vừa có phật gia, đạo gia. Chính nhờ có nhiều điểm nhìn trái chiều phối xen mà thế giới tác phẩm đa nghĩa, đa chiều, thẩm mĩ phong phú thỏa mãn những cách cảm thụ và diễn giải khác nhau.
1. Theo cặp điểm nhìn thứ nhất ta thấy, Truyện Kiều vừa giống tiểu thuyết mà nó dùng làm lam bản, lại vừa không giống, bởi vì nó là một truyện thơ. Và vì nó là truyện thơ cho nên nó đã tích hợp cả một truyền thống thi ca rất phong phú, vừa có ở trong kho tàng thi ca Trung Quốc, vừa có trong kho tàng thi ca và ngôn ngữ Việt Nam. Mới nhìn thoáng qua, hầu như các chi tiết, sự kiệnTruyền Kiều đều đã có sẵn, vay mượn từ tiểu thuyết  của tác giả Trung Hoa. Nhưng nhìn kĩ, thì tất cả các sự kiện chi tiết ấy đã được nhìn từ nhãn quan thi ca. Chân dung nhân vật chính là những chân dung thi ca, khác hẳn chân dung văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân. Cô Kiều thì: “Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm. liễu hờn kém xanh”. Còn Kim Trọng: “Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”, những hình ảnh rất đẹp, không có chút gì văn xuôi và cũng không có trong nguyên tác. Cuộc gặp mặt đầu tiên, rồi phong cảnh buổi chơi xuân, nỗi buồn vẫn vơ của mối tình chớm đậu thấm vào trong cảnh. Từ đó về sau, các cảnh nhớ nhà, cảnh ngắm trăng, cảnh đi sớm, cảnh ngồi một mình, cảnh tiễn biệt, niềm vui tái ngộ, tất tật đều có hơi hướng thi ca từ trong truyền thống thơ Đường, điều mà nguyên tác không thể có được. Cái cảnh đi trốn cùng Sở Khanh cũng đầy chất thơ: “Đêm thu khắc lậu canh tàn, Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương. Lối mòn cỏ lợt màu sương, Lòng quê đi một bước đường một đau”. Cảnh chia tay Thúc Sinh: “Người lên ngựa, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã  nhuốm màu quan san”. Cái nhìn trong cách xưng hô cũng rất thơ. Đối với Kiều, Kim Trọng người kể chủ yếu là xưng chàng, nàng, cách xưng hô dành cho nhân vật con nhà gia thế, đồng thời rất gần gũi về mặt tâm tình. Tương ứng với cách xưng hô này là cách gọi tên Kiều một cách thân mật, mà không gọi là Thúy Kiều như trong nguyên tác. Chỉ Tam hợp đạo cô, một kẻ nắm vận mệnh Kiều, đứng rất xa nàng  mới gọi nàng bằng Thuý Kiều. Cái nhìn thơ mộng này là điều mà một số nhà nghiên cứu trước đây và nhà nghiên cứu Trung Quốc chưa từng nhận thấy rõ. Nhưng Truyện Kiều không chỉ là thơ, mà còn là tiểu thuyết. Ở đây có cảnh vu oan, bắt người tra tấn, cảnh cướp phá, cảnh bán người, cảnh đánh đập bắt tiếp khách, cảnh báo ân báo oán với những chi tiết cụ thể. Có cử chỉ vờ vịt của Mã, Sở, của Bạc Hạnh, cảnh đánh ghen hiểm ác của Hoạn Thư. Có chi tiết “nước vỏ lựu, máu mào gà”, có lối xưng hô “Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe”  rất là tiểu thuyết. Nhưng tự sự cũng rất thơ, không hề văn xuôi, bởi vì đăng đối hô ứng, thi vị. Nó rất nhanh gọn và nhịp nhàng. Ví dụ việc Kiều nhân cha mẹ và hai em đi sinh nhật mà sang với Kim Trọng. Chỉ sáu câu mà kể đủ: “Nhà lan thanh vắng một mình, Gẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay. Thì trân thức thức sẵn bày. Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường. Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông”. Hay như cảnh Kiều tự tử ở lầu xanh lần thứ nhất. Khi mụ Tú đánh đập, Kiều liền: “Thôi thì thôi có tiếc gì, Sẵn dao tay áo tức thì giở ra. Sợ gan nát ngọc liều hoa, Mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay. Thương ôi tài sắc bậc này, Một dao oan nghiệt dứt dây phong trần. Nỗi oan vỡ lỡ xa gần, Trong nhà người chật một lần như nen. Nàng thì bằn bặt giấc tiên, Mụ thì cầm cập mắt nhìn hồn bay”. Chỉ có 10 dòng mà sự lí rõ ràng, kịch tính sắc nét, lại có chút hóm hỉnh, mỉa mai của văn xuôi. Ở đây cái nhìn thơ và văn xuôi đan bện trong ngôn ngữ kể chuyện chứ không phải truyện kể văn xuôi xen lẫn với thơ của các nhân vật như một phép cộng giản đơn như trong nguyên tác và các truyện truyền kì khác. Cách kể bằng thơ cũng gọn gàng , nhịp nhàng rất thú vị. Chẳng hạn cảnh Kiều thấy Kim lần đầu: “Chàng Vương quen mặt ra chào, Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa”. Hoặc cảnh Kim Kiều tình tự, bổng nghe người nhà về thì “Vội vàng lá rụng hoa rơi, Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang”. Một lối kể chuyện gẫy gọn chỉ có trong truyện thơ của Nguyễn Du và đem lại một nghệ thuật bậc thầy  khó ai sánh được.
2.Truyện Kiều kể về chuyện một người phải bán mình làm nghề gái đĩ và một tướng cướp chống lại triều đình cuối cùng bị lừa và bị giết, nhưng cách nhìn của người kể rất đặc biệt. Hầu như mỗi sự kiện đều có song song hai điểm nhìn khác nhau. Khác với các truyện giáo huấn, truyện cổ tích, truyện diễn nghĩa con người chỉ nhìn theo một chiều theo đánh giá chính diện, phản diện theo quan điểm tác giả. Trong Truyện Kiều có cái nhìn nhiều chiều. Về việc bán mình, có cái nhìn từ phía luân lí đạo đức: “Làm con trước phải đến ơn sinh thành”, nhưng từ góc độ cá nhân thì nổi lên sự không đành lòng: “Ôi Kim lang, Hơi Kim lang, Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Chuyện cậy em thay lời vừa muốn vừa không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”.  Chi tiết này là của Nguyễn Du. Đối với chữ trinh khi thì một mặt, “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”, mặt khác, “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”. Khi thì lại như không cần trinh tiết nữa: “Biết thân đến bước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Chi tiết này cũng của Nguyễn Du, không có trong nguyên tác. Đối với việc đi tu cửa Phật, có quan điểm tin vào phép Phật nhiệm màu: “Cho hay giọt nước cành dương, Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên”. Nhưng từ quan điểm cá nhân thì đi tu là một sự hủy hoại tuổi xanh: “Đã đem mình bỏ am mây”; “Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi”. Đi tu là một sự bất đắc dĩ. Đây là điểm nhìn của cô Kiều của Nguyễn Du, không có trong nguyên tác. Và đó không phải là quan điểm của người mộ đạo.  Khi có điều kiện Kiều liền báo ân và báo oán, nhiều kẻ chết thê thảm, khác xa lí tưởng nhà Phật vốn là giới sát. Đến cuối truyện nhà  Kiều lập am và Kiều dầu đèn chờ Giác Duyên theo chữ “nghĩa” của nho gia, chứ không hẳn  là tu phật, vì nàng đâu có xuất gia, nàng về danh nghĩa vẫn đang là vợ chính thức mới cưới của Kim Trọng. Như thế là đối với mỗi sự kiện đều có những cách hiểu khác nhau. Đối với Hồ Tôn Hiến lúc đầu giới thiệu rất trang trọng: “Có quan Tổng độc trọng thần”, nhưng liền đó lại thấy con người tráo trở: “Lễ nghi dàn trước, bác đồng phục sau”. Lại có cái nhìn phát hiện ra y là kẻ tầm thường: “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Những điểm nhìn khác nhau vẽ ra những con người lập thể, đa diện. Phức tạp hơn hết là cái nhìn đối với nhân vật Từ Hải. Theo quan điểm quan phương thì Từ là một tướng cướp, là giặc, nhưng chỉ có họ Đô là xưng Từ là giặc, còn người kể chuyện ngay từ đầu đã gọi Từ là khách biên đình, là anh hùng, cho đến khi Từ đã chết, trước mặt Hồ Tôn Hiến Kiều vẫn nói: “Rằng Từ là đấng anh hùng, Dọc ngang trời đất, vẫy vùng bể khơi”.  Khi khóc than chuẩn bị gieo mình xuống sông Tiền Đường Kiều đều gọi Từ là  “Từ Công”, giống như khi trước gọi Hồ Tôn Hiến là Hồ Công, không hề phân biệt “địch ta”. Đối với việc khuyên Từ Hải hàng, cũng có nhiều quan điểm. Khi thì gọi đó là “việc nước”, theo quan điểm quan phương, khi thì thì thấy đó là sự “giết chồng”, khi thì thấy là “có công”, khi lại thấy là “có tội”: “Nghĩ mình công ít tội nhiều”. Nhưng nghĩ kĩ thì thấy hành động của Kiều là nhẹ dạ: “Nàng thì thật dạ tin người, Lễ nhiều nói ngọt, nghe lời dễ xiêu”. Điểm nhìn của Nguyễn Du, không có trong nguyên tác. Đối với ông Trời, quan điểm định mệnh của Nguyễn Du là rất rõ và nhất quán, tuy vậy cũng có lúc cho rằng “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.” Trời của Nguyễn Du không đồng nhất với Thiên của nho giáo, vốn là một “thiên lí” siêu hình, mà là một kẻ biết xúc động với với hiếu tâm của Kiều, sẵn sàng nghiêm trị bọn bạc ác tinh ma. Đối với bọn Tú, Mã, Sở thì tội của chúng là do chúng tự chuốc lấy, chứ không phải tại trời. Trước đây các nhà phê bình Mác xít Việt Nam thường có thói quen duy vật là chỉ thừa nhận những tư tưởng tiến bộ của nhà văn, còn những tư tưởng lễ giáo hay định mệnh thì coi là những hạn chế của thế giới quan phong kiến. Thực ra nếu thừa nhận nhãn quan định mệnh, tư duy lễ giáo là tất yếu lịch sử thì sẽ thấy nhà thơ của chúng ta đã vượt lên trói buộc của thời đại để có những nhận thức mới phù hợp với quan điểm nhân văn mới đúng.
3.Xem chân dung Thuý Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng, Từ Hải ai cũng thấy đó là các chân dung có sẵn đâu đó trong văn học trung đại, không mang chút cá tính cụ thể nào. Những “mai cốt cách, tuyết tinh thần”, “Làn thu thủy nét xuân sơn”, “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”… đều là những sáo ngữ. Ngay hình ảnh được nhiều người ca tụng “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà”  thì cũng là sáo ngữ, nói chung người con gái nào mà không như thế. Có thể nói đó là điểm nhìn tu từ học cổ điển, miêu tả theo lối ước lệ có sẵn. Nhưng nếu dựa vào đó để chê Truyện Kiều thiếu cá tính, thiếu ý thức cá nhân thì lại nhầm to. Nguyễn Du có một điểm nhìn trái ngược với quan điểm tu từ ấy khi miêu tả nhân vật, đó là miêu tả nhân vật từ bên trong, từ điểm nhìn nội tại có tính cá thể cao độ. Tôi đã có nhận xét rằng, trong Truyện Kiều, con người bên trong cụ thể cảm tính hơn con người bên ngoài, lời nói bên trong cụ thể hơn lời nói bên ngoài, phong cảnh bên ngoài có xu hướng nội tâm hóa. Thế giới nội tâm của Truyện Kiều là rất cụ thể, không lặp lại. Cảm xúc của Kiều khi gặp chàng Kim, cảm xúc khi phải bán mình, tình cảm lúc cậy em thay lời, cảm xúc khi buộc phải tiếp khách, cảm xúc khi phải chuyện trò với chàng Thúc chỉ biết hưởng thụ thân thể nàng. Toàn bộ thế giới tâm tình của nhân vật ai đã đọc đều không thể cho là ước lệ, đó là “con người này”, là một cá tính không lặp lại. Ở đây không còn là quan điểm tu từ của chủ nghĩa truyền thống, mà đã là quan điểm văn học theo kiểu cá nhân luận cận hiện đại. Không chỉ một mình Kiều như thế mà các nhân vật khác như Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, kể cả nhân vật Mã Giám Sinh, mụ Tú Bà cũng đều có một cuộc sống riêng bên trong, mà ngoài cái vẻ bề ngoài khuôn sáo thì chỉ có dòng ngôn ngữ nội tâm, độc thoại nội tâm mới miêu tả ra được. Ngay phong cảnh, sự việc đều hiện ra qua cảm thụ của con người. Hãy nhìn kĩ cách tả cảnh trong truyện sẽ thấy cảnh không phải là tĩnh tại, được đưa ra như là có sẵn, mà là xuất hiện dần dần theo bước chân, con mắt của nhân vật. Chẳng hạn,Bước lần theo ngọn tiểu khê, Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sự vật hiện ra qua sự phỏng đoán của nhân vật, ví dụ: Bóng hồng nhác thấy nẻo xa; Trông chừng thấy một văn nhân; Thưa hông rậm lục đã chừng xuân qua… Miêu tả hay trần thuật cái gì cũng lấy sự cảm nhận của con người làm trung tâm. Đây chính là giá trị đỉnh cao của tác phẩm về phương diện chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn trên phương diện nghệ thuật.
4.Truyện Kiều kề thừa quan điểm chữ Thân trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, nhìn con người qua quan điểm hình nhi hạ. Nếu lấy cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII là dấu mốc chia văn học Việt Nam trung đại làm hai giai đoạn thì ta thấy từ thế kỉ XVII về trước con người trong văn học chỉ được quan tâm từ hình nhi thượng, tức là con người sống theo đạo lí, nhìn người theo đạo lí. Còn văn học từ thế kỉ XVIII trở đi lại nhìn người chủ yếu theo hình nhi hạ, tức là nhìn người theo tấm thân. Thân đây là thân thể, cái phần vật chất sẽ bị thời gian tàn phá, sẽ có thể mua bán, có thể bị giày xéo, hư nát, khổ đau. Truyện Kiều là tác phẩm tự sự theo điểm nhìn chữ Thân. Những người hiểu nhân vật qua chữ tài, sắc, chữ tình, chữ hạnh đều không hiểu gì Truyện Kiều. Những người bám vào câu “tài mệnh tương đố” cũng không hiểu được Truyện Kiều. Bởi Truyện Kiều là tác phẩm kể về một Tấm thân quằn quại vũng lầy, Thân lươn bao quản lấm đầu, kể nỗi đau của Tấm lòng trinh bạch từ nay cũng chừa. Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan. Truyện Kiều là sự phát triển sâu sắc nhất của dòng văn học chữ Thân trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII. Nguyễn Du đã nâng tư tưởng tài mệnh tương đố lên mệnh đề thân mệnh tương đố rất sâu sắc.
5.Truyện Kiều cũng tự sự theo quan điểm chữ Tâm. Chữ Tâm khiến nàng thương khóc Đạm Tiên, nể lời Kim Trọng, chữ Tâm khiến nàng bán mình chuộc cha, cậy em thay lời, chữ Tâm khiến nàng chịu nhẫn nhục, không buông thả theo lối tà dâm, khiên nàng khuyên Từ Hải hàng, lại chết theo Từ Hải. Trong truyện của Thanh Tâm tài nhân thì khi hầu rượu Hồ Tôn Hiến, Kiều liếc mắt đưa tình, lung lạc hắn, khác với Kiều Nguyễn Du. Nhìn theo chữ Tâm để kết truyện có thể nói “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Từ điểm này nhìn lại đoạn tả chị em Thuý Kiều, nhất là Kiều: “Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi hoạ đủ mùica ngâm, Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương, Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân, Phong lưu rất mực hồng quần” thì thấy điểm nhìn lời kể có phần tung hô, quảng cáo theo lối cậy tài, thị tài  thái quá, tương phản với câu Có tài mà cậy chi tài sau này. Đó là phục bút để cho người nhẹ dạ tưởng Nguyễn Du chỉ ca ngợi tài Kiều, mà không thấy nhà thơ đã dùng lời lẽ khác thường. Nhưng cái cảnh xem tài đàn là cái “lầm người bấy nay” thì thật khó hiểu và quá oan cho tài đàn của nàng. Cái tài bị ghét một cách oan uổng lại là điểm nhìn mâu thuẫn về thế giới quan thật.
6.Truyện Kiều là truyện kể vừa tao nhã, quý phái vừa là thế tục, vừa nhã vừa tục. Nói quý phái tao nhà là khi miêu tả nhân vât với những đường nét cao sang như mai cốt cách, tuyết tinh thần, Kiều xuất hiện khi nào cũng có mùi hương quyến rũ, một điều mà nguyên tác không có. Lời nói nhân vật chủ yếu là văn hoa, điển cố. Trang phục nhân vật, hoàn cảnh xung quanh đều sang trọng, như “Dải là hương lộn, bình gương bóng lồng”, “Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”, thật là tao nhã quý phái rất mực. Theo nguyên tác Trung Hoa thì gia đình họ Vương chỉ là viên ngoại, thường thường bực trung, Kiều không phải là tiểu thư khuê các, không có a hoàn theo hầu, cô Kiều trong tranh minh họa có khi miêu tả là người mặc áo ngắn tay. Nhưng nếu miêu tả theo quan điểm đó thì tác phẩm thiếu đi cái đẹp sang trọng tao nhã, không hợp với cái gu quý tộc vốn có của tác giả Nguyễn Du. Nhưng mặt khác Truyện Kiều nguyên là sản phẩm của dòng tiểu thuyết ra đời trên nền tảng thị hiếu thị dân, phong khí thế tục rất thịnh, kể những chuyện đời thường, có trộm ngọc cắp hương, có yếu tố sắc dục, có tình tiết mưu lừa, các kế sách mua gái nhà lành, lừa ép tiếp khách, đánh úp kẻ xin hàng. Nguyễn Du rõ ràng đã tước bỏ đi rất nhiều các mưu mẹo lọc lừa, các chi tiết “intrigue” gây hấp dẫn, nhưng tính chất thông tục của cuốn truyện vẫn không thay đổi. Bởi vẫn còn chuyện bán mình chuộc cha, bị lừa bán cho lầu xanh, bị đánh ghen, lại vào lầu xanh lần hai, làm vợ tướng giặc, bị ép gả cho thổ tù, nhục nhã phải gieo mình tự tận. Đó là một số phận đời thường mà ai cũng hiểu được, ai cũng quan tâm. Những khi nhục nhã ê chề, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần, Kiều không còn gì là sang trọng, quý phái nữa, mà chỉ còn là con người đau khổ nhục nhã nói chung, đại diện cho bao thân phận phụ nữ  bị dập vùi. Đó là truyện thông tục, bình dân, ai cũng hiểu. Đặc biệt Truyện Kiều tự sự từ chữ Thân, tức là thân thể, cái phần đau đớn, dễ bị mua bán, hành hạ, hủy hoại của kiếp người, cái phần sung sướng và đau khổ. Trong dòng văn học chữ Thân của Việt Nam nảy sinh từ thế kỉ XVIII với Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều đã đi xa nhất, thể hiện một cái thân phổ quát nhất, do đó tác phẩm vừa là văn học đại chúng vừa là văn học tinh hoa cao cấp.
7.Gắn với tính chất cao nhã Truyện Kiều có một hệ thống ngôn ngữ (trường ngữ vực) chi tiết rất đẹp, với những thềm hoa, lệ hoa, trướng gấm, buồng thêu, tiếng vàng, giọt ngọc, con người thì mặt hoa, ngọc thốt, nhạc vàng, hài văn, đầy tính trang sức rất cao quý, tao nhã. Cũng với đó là các điển cố cầu lam, chương đài, chim xanh, Trang Chu mộng bướm, Đỗ Quyên khóc máu, hồn mai, giấc hòe, kim mã ngọc đường, tác phẩm như một đồ vật quý khảm vàng bạc châu ngọc rất quý giá. Nhưng mặt khác Truyện Kiềudày đặc những lời kể rất Việt Nam: “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. “Vui là vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó mặn mà với ai”. “Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau”, đọc lên hết sức gần gủi như những bài ca dao. Đặc biệt ngôn ngữ nhân vật trong truyện đều có tính chất cá thể hóa cao độ. Lời kể, lời tả, đều rất dung dị, thiết tha, đau đớn, thấm vào gan ruột người đọc.
Truyện Kiều là một tác phẩm tự sự đa chiều, nhiều giọng, nhiều điểm nhìn. Một mặt là những điểm nhìn có sẵn của truyền thống tự sự trung đại. Đó là điểm nhìn tu từ học, điểm nhìn tiểu thuyết chương hồi, điểm nhìn lễ giáo, quan phương. Nhưng mặt khác Nguyễn Du đã đem vào những điểm nhìn mới lạ, điểm nhìn thi ca, điểm nhìn cá nhân, cá thể, thế tục của nhân vật, điểm nhìn nhân văn, điểm nhìn thân thể, điểm nhìn nội tâm, điểm nhìn tao nhã và điểm nhìn thông tục đời thường. Các điểm nhìn mới đó đã làm mới câu chuyện, làm mới hình thức và nội dung tác phẩm, biến một tác phẩm thường thường bậc trung thành một kiệt tác tầm cỡ thế giới.
Nguồn: Bài đọc trong Hội thảo kỉ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2015

THƠ MỚI VÀ SỰ BÙNG NỔ CỦA CÁI TÔI

THƠ MỚI VÀ SỰ BÙNG NỔ CỦA CÁI TÔI
1. Thơ mới – Sự bùng nổ của cái Tôi cá nhân, cá thể.
Trong giai đoạn “gió Âu mưa Mỹ” tràn vào nước ta, “người thanh niên Việt Nam đang đi tìm thi nhân của mình như con đi tìm mẹ” (Lưu Trọng Lư). Và lẽ dĩ nhiên, “Phương Tây đã giúp chúng ta phát hiện ra mình” nhưng đó là sự phát hiện ra mình trên mảnh đất giàu tiềm năng và bề dày trầm tích văn hóa. Vì vậy, Thơ mới là “một bước tổng hợp mới những giá trị văn hóa Đông Tây, truyền thống và hiện đại” (Phan Cự Đệ). Có thể nói như nhà thơ Huy Cận: “Thơ mới là nỗi niềm, thái độ , là một cuộc ra trận của cả một thế hệ văn chương, một lực lượng trẻ văn hóa dân tộc quyết đổi mới cả một nền văn thơ, văn chương đã mỏi mòn, khô cứng, bạc màu”. Thơ mới đã làm một cuộc cách mạng, thay đổi cả hệ thống thi pháp. Cuộc cách mạng trong Thơ mới gắn với quá trình giải phóng cái tôi cá nhân khỏi những ràng buộc của con người phận vị, “con người chức năng trong xã hội luân thường” (Trần Đình Hượu). Thơ mới là sản phẩm của “khát vọng thành thật” (Hoài Thanh), đưa cái tôi cá nhân vào trung tâm của thơ ca, cho phép biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng.
Thơ ca bao giờ cũng là dấu ấn sáng tạo của người cầm bút, thể hiện bản ngã, cái tôi. Từ thời trung đại, Hồ Xuân Hương đã cá tính sắc nhọn trong từng lời thơ và tự xưng tên trong thơ “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi”(Mời trầu). Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện rõ bản ngã của cái tôi tài tử. Thế nhưng, cái tôi trong thơ trung đại hầu hết hòa trong cái ta chung. Thơ ca trung đại đề cao tính vô ngã. Phải đến Thơ mới, cái tôi mới được nhận thức và thể hiện như là trung tâm của thơ ca. Phương Tây đã đi một quãng đường khá xa trong sự khẳng định cái tôi cá nhân. Thế nhưng ở nước ta, cùng những yếu tố nội sinh cộng với sự tiếp biến văn học phương Tây, cái tôi mới được tìm thấy và nở rộ trong thơ. Cái tôi đó được thai nghén cả nghìn năm trong thơ ca trung đại, đến đầu thế kỷ XX mới trở dạ và thể hiện đậm nét trong dòng Thơ mới. Có thể nói, thơ ca hướng vào thể hiện cái tôi chính là con đường đưa thơ trở về với bản ngã của chính nó. Thơ mới khám phá cái tôi với tư cách là chủ thể nhận thức và là đối tượng phản ánh của thi ca. Với tư cách là chủ thể nhận thức, cái tôi cùng hệ thống quan niệm thẩm mĩ mới mang dấu ấn của những tìm kiếm mới, sáng tạo mới, phong cách mới mà văn học mấy thế kỷ qua chưa đạt tới được. Cái tôi ấy không chỉ bó hẹp thơ ca trong mục đích tải đạo, nói chí, giáo huấn mà là chủ thể sáng tạo mang cá tính riêng, phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng định mình. Cái tôi cũng là đối tượng phản ánh của thi ca với tất cả sự phong phú, hấp dẫn, phức tạp của nó. Với nhu cầu khẳng định cái tôi cá nhân, cá thể, các nhà thơ Mới đã “đồng loạt cất lên bản hòa tấu tuyệt đẹp với những âm thanh mới lạ, tân kỳ chưa từng có trước đó”(GS. Hồ Thế Hà)
Thơ mới về cơ bản hoàn toàn đối lập với thơ cũ, như Lưu Trọng Lư đã nói một cách hình tượng “Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lịa ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì những tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà gáy đúng Ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình giây phút, cái tình nghìn thu”. Thơ mới đã làm một cuộc cách mạng thi ca, từ nghệ thuật biểu hiện đến nội dung, tư tưởng. Thơ mới đã đưa thơ ca nước ta tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa. Con người cá nhân, cá thể xuất hiện trong Thơ mới là con người trực tiếp đối diện với thế giới và đối diện với chính mình, là con người đã rũ bỏ gánh nặng của nhà luân lý với thơ và bằng thơ, là con người hoàn toàn tồn tại với tư cách là một cái tôi mang cảm xúc cá thể. Xuân Diệu trong lời tựa “Gửi hương cho gió” đã từng nhận mình "Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hót chơi…”. Chế Lan Viên cũng bộc lộ “Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai”. Còn Hàn Mặc Tử thì viết : " Người thơ là khách lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng; xung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm giây quyến luyến - làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai. Gió phương mô đẩy đưa Người đến bến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật". Mỗi nhà thơ với cá tính sáng tạo riêng đã bộc lộ cái tôi không giống nhau. Và có lẽ, chưa bao giờ như bây giờ, thơ ca đạt đến độ chín của nhiều phong cách, nhiều cái Tôi cá nhân, cá thể trong tư cách là chủ thể sáng tạo như thế. Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định “Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Khám phá vườn Thơ mới, ta có thể nhận ra hương sắc riêng của từng phong cách. Và cũng từ những vần thơ mang dấu ấn chủ thể sáng tạo ấy, cái Tôi phức tạp nhưng đầy hấp dẫn đã đi vào trung tâm thơ ca với đầy đủ ý nghĩa nhân bản. Đó là một Thế Lữ như "người khách đi qua trần thế" thoát ly để đi tìm cái đẹp “Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể”, mộng mơ trong chốn bồng lai tiên cảnh với tiên nga, ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc trắng hoa đào. Đó là một Xuân Diệu tự xem mình “Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất” luôn băn khoăn, rạo rực trong tình yêu với nỗi phấp phỏng muốn chiếm lĩnh thời gian: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em, em ơi, tình non sắp già rồi”; “Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”. Đó là một Huy Cận với cái tôi mang nỗi “sầu vạn kỷ” nơi quán chật đèo cao, sông dài trời rộng “Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu”. Đó là một Chế Lan Viên với cái tôi tiếc thương quá khứ, lạc trong thế giới điêu tàn siêu hình, thần bí, băn khoăn nghi nghờ bản thể “Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta/ Ý của ai trào lên trong đáy óc”. Dường như trước sự biến suy của xã hội cùng ảnh hưởng văn hóa Tây phương, cái tôi trong Thơ mới bấy lâu dồn nét chợt vỡ òa. Cái tôi đó vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền văn hoá mới. Các nhà Thơ mới đều có ý thức khẳng định mình như một thực thể duy nhất không lặp lại. Hướng đến khám phá và thể hiện cái tôi cá nhân, cá thể, Thơ mới mang lại cho thơ Việt sự thanh tân, tươi mới, một lối thơ hiện đại, đoạn tuyệt với thơ ca trung đại gò bó, khuôn thước.
Cái tôi cá nhân, cá thể bùng nổ trong thơ làm đảo lộn mọi quan niệm. Quan niệm thẩm mĩ thay đổi, nội dung tư tưởng đổi khác và chúng hiện lên trong bộ cánh hình thức cũng mới mẻ vô cùng. Không còn là thơ để tải đạo, để nói chí, thơ ca bây giờ bám rễ vào cuộc đời trần thế với tất cả niềm vui, nỗi buồn, sự đam mê, cô đơn, hoài nghi, chán nản…Đến với thơ Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đó cái tôi bộc lộ đầy đủ, trọn vẹn, cá tính trong khát khao tình yêu, lồ lộ đam mê mãnh liệt “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào”. Con người ấy nồng nhiệt, tha thiết sống, sống hối hả, sống cuống quýt, muốn là dây “quấn quýt lấy mình xuân”, muốn “chân hóa rễ để hút màu dưới đất” nhưng cũng không tránh khỏi nỗi cô đơn “Em là em, anh vẫn là anh/ Có lẽ nào qua Vạn Lý trường thành/ Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” và cả sự bế tắc trước cuộc đời “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”. Thơ Hàn Mặc Tử lại đưa ta khám phá “một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng", “rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh..." (Hoài Thanh) và bắt gặp một cái tôi mê dại, não nề đến rên xiết, cô độc đến trống rỗng, khát thèm đến đê mê trong thú đau thương. Cái tôi ấy đắm mình trong ngổn ngang nỗi niềm day diết quặn đau; xa đời, xa người và xem thế giới ảo mộng là người tình tri kỉ. Hàn Mặc Tử mê tơi trong những ảnh hình kì dị. Cái tôi phân thân, trao phận vào cõi hư vô ắp đầy ám gợi: “Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng/ Cho ngây người mê dại đến tâm can” (Rướm máu). Nếu trong thơ truyền thống, con người bé nhỏ, tan biến trong vũ trụ, hoặc con người hướng tới cái thiêng liêng, cái siêu việt thì trong Thơ mới, cái tôi được giải phóng, con người cá nhân được ý thức và khẳng định như là trung tâm của vũ trụ. Thơ mới khả năng diễn đạt những rung cảm tinh tế của cái Tôi cá nhân cá thể, tạo nên sự cách tân đáng kể so với thơ cũ.
Cùng với đó, quan niệm thẩm mĩ cũng đổi khác. Nếu thơ xưa xem thiên nhiên là chuẩn mực cái đẹp thì trong Thơ mới, con người mới là vẻ đẹp toàn bích. Vì vậy, Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh) khi miêu tả thiên nhiên luôn lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực: “Lá liễu dài như một nét mi”, “Mây đa tình như thi sĩ thời xưa”, “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…Còn với Huy cận, thiên nhiên là bức tranh mang hồn quê, hồn nước, đẹp mà buồn: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” (Tràng giang). Với Hàn Mặc Tử, thiên nhiên là hiện thân xác thịt, là người thiếu nữ gợi cảm, là cám dỗ của trái cấm: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi…Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...” (Bẽn lẽn). Thơ mới biểu hiện một cuộc cách mạng của tư duy thơ : đặt cái tôi cá nhân ở trung tâm cảm thụ thế giới. Trong Thơ mới, có một sự giao hòa giữa thế giới nội cảm (cảm xúc, cảm giác, tâm trạng) của chủ thể trữ tình với thế giới ngoại cảnh, có sự nới rộng những biên độ của sự cảm thụ thế giới bằng việc kết hợp các giác quan một cách kỳ lạ. Thiên nhiên trong thơ mới là một thứ thiên nhiên rạo rực những cảm giác của con người: “Vườn cười bằng bướm hót bằng chim / Dưới nhánh không còn một chút đêm / Những tiếng tung hô bằng ánh sáng /Ca đời hưng phục trẻ trung thêm” (Lạc quan - Xuân Diệu). Có khi nội cảm hóa ngoại cảnh, làm cho ngoại cảnh nhuốm màu cảm xúc con người: “Nắng chia nửa bãi, chiều rồi.../ Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu / Sợi buồn con nhện giăng mau / Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây” (Ngậm ngùi - Huy Cận). Có khi ngoại cảnh hóa tâm hồn “Đây chùm thương nhớ, khóm yêu đương / Đây em cành thẹn lẫn cành thương” (Xuân Diệu). Con người trong quan niệm của các nhà Thơ mới là con người trần thế. Từ đó, không gian và thời gian nghệ thuật trong Thơ mới là tính chất, hằng số tâm lí – xã hội của con người cá nhân, cá thể.
Có thể nói, mọi phương diện thi pháp trong Thơ mới đã hoàn toàn thoát li thơ cũ. Tất cả chịu sự chi phối của cái Tôi cá nhân, cá thể. Trong khu vườn Thơ mới, mỗi cái Tôi mang một hương sắc riêng, tạo nên một thế giới thơ đa dạng, phong phú về phong cách. Sự bùng nổ cái Tôi đã đưa thơ vươn tới bao giá trị mới chưa từng có trước đó.
2 - Thơ mới – Sự bùng nổ ngôn từ.
Thơ mới không chỉ là sự nở rộ cái tôi cá nhân, cá thể mà còn đánh dấu sự bùng nổ ngôn từ trên con đường hiện đại hóa thơ ca. Nhà thơ Huy Cận đã từng cho rằng: “Thơ mới tạo ra ngôn từ mới để biểu hiện cảm xúc mới. Tiếng Việt trẻ lại với thơ. Sự đóng góp của Thơ mới về ngôn ngữ là rất lớn …Tiếng Việt đến thời Thơ mới đã đổi thịt thay da một lần nữa”. Có thể thấy, nếu thơ ca trung đại gò bó, ước lệ, khuôn sáo, ưa thích điển tích, điển cố trong câu chữ thì đến Thơ mới, ngôn ngữ đã tươi mới, phong phú, giàu phép tu từ và khả năng biểu cảm, vừa hàm ẩn, súc tích vừa trong sáng mà sang trọng, quý phái, vừa giàu nhạc tính vừa mang tính tương hợp cao, vừa có ngôn từ tượng trưng, siêu thực vừa có ngôn từ huyền ảo kinh dị. Trải qua cả chục thế kỷ nhưng chưa bao giờ, ngôn từ thơ lại phong phú, hấp dẫn và ngồn ngộn sức sống đến vậy. Cái tôi thi nhân Thơ mới đã tạo ra những bước đi liên tục của ngôn ngữ thơ, đưa ngôn ngữ thơ từ "điệu ngâm sang điệu nói" (Trần Đình Sử), từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo Phan Ngọc thống kê thì trong 1000 bài thơ Đường luật, tức là tổng cộng 56.000 từ nhưng các nhà thơ trung đại chỉ sử dụng có 300 từ và hoán đổi chúng trong các bài thơ. Điều đó cho thấy sự nghèo nàn, khô cứng, sự lặp lại đơn điệu của ngôn ngữ thơ ca trung đại. Thế nhưng, khi các nhà Thơ mới đặt cái Tôi ở trung tâm, đưa thơ về với cuộc sống trần thế trong “khát vọng thành thật” thì lối thơ mang nặng tính ước lệ, vay mượn ngôn từ, điển tích đã không đủ sức chứa nổi muôn hình vạn trạng cảm xúc thi nhân. Vì vậy, đến Thơ mới, thơ Việt đã làm cuộc ly thân hẳn ngữ liệu cũ, ước lệ xưa. Các tác giả đã có nhãn quan mới, giọng điệu mới làm thay đổi ngôn ngữ thơ: giai đoạn này bắt đầu xuất hiện các câu thơ định nghĩa, câu thơ giãi bày với những hô ngữ, thán từ, cách nói bằng các con số và có thêm sự góp mặt của ngôn ngữ văn xuôi, giá trị biểu đạt tinh tế được tăng cường. Có sự trở về với ngôn ngữ thơ cổ nhưng vẫn mang trong nó những tình ý mới. Con đường kiếm tìm cái tôi cá nhân ấy đã phân hóa ngôn ngữ thơ theo nhiều hướng, đẩy thơ bước vào địa hạt tượng trưng, siêu thực, mang màu sắc chủ nghĩa hiện đại. Thơ được giải phóng triệt để khỏi các phép tắc, thanh vận chặt chẽ của các thể loại thơ truyền thống, thơ tự do bắt đầu xuất hiện với số lượng các câu thơ không còn bị giới hạn. Đặc biệt, ngôn ngữ bình thường trong đời sống hàng ngày đã được nâng lên thành ngôn từ nghệ thuật trong thơ, không còn bị câu thúc bởi việc sử dụng các điển cố văn học. Ngôn ngữ thơ phong phú, đầy năng lượng và biến hóa trong từng phong cách. Sau bao năm thơ ca trung đại sử dụng ngôn từ “như những viên gạch để lắp vào bộ khung cố định của luật thơ” (Trần Đình Sử) thì với Thơ mới, ngôn từ bùng nổ và trở nên phong phú, mới lạ hơn bao giờ hết.
Với ý thức khẳng định mình của cái tôi trong Thơ mới, ngôn ngữ Thơ mới có sự xuất hiện đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (ở thơ cũ hiếm thấy) nhằm khẳng định một cách rõ ràng, dứt khoát tư tưởng, tình cảm của cái tôi trữ tình. Cùng với điều đó, Thơ mới xuất hiện những câu thơ định nghĩa, giai đoạn đầu có nhiều ở thơ Thế Lữ: “Tôi là người bộ hành phiêu lãng”, “Tôi chỉ là một khách tình si”. Từ 1936, Thơ mới đi sâu hơn vào cái tôi, những câu thơ định nghĩa xuất hiện nhiều ở Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Với những câu thơ định nghĩa như thế, cái tôi nhà thơ được khẳng định rõ ràng, dứt khoát hơn.
Nếu Thơ cũ chủ yếu dùng “ý tại ngôn ngoại” thì Thơ mới là thơ hướng nội. Đó là thơ của cái tôi nội cảm hướng đến thể hiện cảm giác, trình bày các trạng thái tình cảm, nên thế giới ngôn ngữ Thơ mới đầy ắp những hô ngữ, thán ngữ, lời than, lời kể. Ví như tiếng thơ Chế Lan Viên ngỡ ngàng trước bước đi của thời gian “Chao ôi, Thu đã đến rồi sao/ Thu trước vừa qua, mới độ nào” hay lời than não nề của Hàn Mặc Tử “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ Bao giờ tôi hết được yêu vì”. Những yếu tố giao tiếp như hô ngữ, thán ngữ, lời than, lời kể… bước vào thơ một cách tự nhiên làm cho ngôn ngữ sống động, tươi nguyên.
Từ thơ trữ tình điệu ngâm sang thơ trữ tình điệu nói, ngôn ngữ thơ tiếng Việt đã làm cuộc chuyển hóa nhanh chóng từ thi pháp trung đại sang hiện đại. Số từ vựng càng giàu có, cách diễn đạt càng tự nhiên, càng chuyên chở đầy đủ, tinh tế những cảm xúc phong phú, đa dạng, đa cung bậc của cái tôi trữ tình. Sử dụng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán Nôm, Thơ mới ít dùng từ Hán Việt. Thơ mới cũng khai thác nhiều giá trị các biện pháp tu từ, tạo cho ngôn ngữ thơ giàu sắc thái biểu cảm, hình tượng và cảm xúc. Từ đó, nó mở ra những kết hợp mới mẻ, táo bạo, làm giàu vốn từ tiếng Việt, cung cấp nhiều lượng thông tin mới cho từ trong hoạt động ngữ nghĩa. Trong thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng mới xuất hiện nhiều. Đó là những cách dùng từ rất lạ như “Chị ơi, em cưới mùa xuân nhé; - Nằm mãi mà xem cái nhỡ nhàng” trong thơ Nguyễn Bính, “Hơn một loài hoa đã rụng cành”, “Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim”, “Đây chùm mong nhớ, khóm yêu thương” trong thơ Xuân Diệu, “Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời”, “Dưới trời huyết, tháp chàm buồn tư lự” trong thơ Chế Lan Viên hay “Tôi vo nhớ tiếc như vo lụa, Tôi riết thời gian trong nắm tay” trong thơ Hàn Mặc Tử. Có những từ vốn không xa lạ bước vào Thơ mới cũng như thoát xác đầy ý vị mới mẻ. Khi Xuân Diệu viết "Chiều góa không em lạnh lẽo sao" thì từ "góa" gợi nhiều liên tưởng nghĩa mới, không chỉ gợi sự thiếu vắng mà cả trống vắng, đơn chiếc. Hay thơ Nguyễn Bính vẫn là hình ảnh quen thuộc của ca dao nhưng mang một sinh khí mới mẻ, đầy tính hiện đại trong sự đồng nhất cái tôi nhà thơ với thiên nhiên tạo vật: “Lợn không nuôi đặc ao bèo/ Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn/ Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”. Những hình ảnh biểu tượng cho tình yêu, sự hò hẹn và chia ly vào thơ Nguyễn Bính lại mang ý nghĩa của sự lỡ làng và lỡ bước.
Không chỉ mới mẻ trong từ ngữ và cách diễn đạt, hàm súc, cô đọng ý tình mà ngôn từ Thơ mới rất giàu tính nhạc. Bằng cách phối hợp thanh điệu, kết hợp nguyên âm cao và phụ âm vang cùng nhịp điệu tâm hồn của thi sĩ, ngôn từ Thơ mới tràn đầy tính nhạc. Ngấm vào máu điệu hồn dân tộc qua ca dao, Đường thi và nhanh nhạy tiếp thu nhạc tính trong thơ tượng trưng Pháp, các nhà Thơ mới đã rất dụng công đưa nhạc vào thơ, nhạc làm nền cho thơ, nhạc hòa âm, phối nhịp với giọng điệu thơ, dẫn dắt hồn thơ, thơ đi theo nhạc, điệp trùng những vang ngân qua nhiều giai điệu.Thơ mới giàu nhạc điệu: nhạc điệu bằng - trắc theo kiểu thơ Đường như câu thơ Xuân Diệu “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh / Trăng thương, trăng nhớ, hởi trăng ngần! / Đàn buồn, đàn lặng, ôi! đàn chậm / Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân” (Nguyệt cầm); nhạc điệu lục bát của ca dao, dân ca được các nhà thơ tìm cách biến tấu, vắt dòng, ngắt nhịp như câu thơ Huy Cận “Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi/ Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...” (Buồn đêm mưa).; nhạc điệu bằng lối dùng từ tượng âm của những từ xướng âm nhạc cổ để lồng ghép vào thơ như trong bài Say đi em của Vũ Hoàng Chương “ Khúc nhạc hồng êm ái / Điệu kèn biếc quay cuồng / Một trời phấn hương / Đôi người gió sương” ; nhạc điệu bằng cách xây dựng câu thơ, bài thơ hoàn toàn bình thanh theo kiểu của Bích Khê như “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng/Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông ” hay Xuân Diệu như “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng hồn lên chơi vơi”; nhạc điệu bằng cách điệp âm, điệp thanh, lặp lại khổ thơ, vắt dòng câu thơ như “Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt/ Như hắt hiu cùng hơi gió heo may” (Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ)... Thơ mới là tiếng nhạc vang ngân, da diết. Các nhà thơ đều ra sức khai thác nhạc tính một cách tối đa. Thơ mới là thơ của những tiết tấu âm vang, của những con chữ biết hát ca và trò chuyện, thơ của sắc màu rộn rã dù bàng bạc trong nó “nỗi buồn thế hệ” của một thời. Với ngôn ngữ giàu nhạc tính, Thơ mới đã làm giàu có, đẹp đẽ hơn giá trị của tiếng Việt.
Ngôn từ Thơ mới còn mang tính tương hợp cao. Đó là sự ảnh hưởng sâu đậm của Baudelaire với quan niệm về sự tương hợp của các giác quan :hương thơm, màu sắc và âm thanh cùng nhau tương hợp. Nhạc thơ xuất hiện trong tương hợp ấy nên nó rất đẹp, lung linh, kỳ ảo, lưu giữ lâu bền chất thơ trong lòng người, nhạc hoá hồn thơ, thông qua cách kiến trúc câu thơ đầy nhạc, đầy âm vang...tất cả được hòa quyện, chuyển hóa trong nhau để tạo thành một thế giới nghệ thuật, thế giới của sự tương hợp giữa âm nhạc, màu sắc, hương thơm và cảm giác vang vọng, u sầu, trước hết của chính người thơ, và sau đó, vươn đến tha nhân, để vẫy gọi những tấm lòng đồng điệu, tri âm, tri ngộ. Thơ Xuân Diệu có những bài tràn đầy cảm giác như bài “Nguyệt cầm”. Bài thơ thể hiện sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh. Có sự tương giao, cộng hưởng giữa âm thanh và ánh sáng, da diết cảm giác tê lạnh trôi trong các vần thơ: Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời/ Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi... / Long lanh tiếng sỏi vang vang hận / Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người. Tính tương hợp của ngôn ngữ thơ cũng xuất hiện hiện nhiều trong những vần thơ đầy cảm giác của Hàn Mặc Tử. Trong Thơ mới, cuộc sống được cảm nhận vừa bằng cảm xúc, vừa bằng trí tuệ, vừa bằng cả thẩm mĩ các giác quan hòa quyện. Một thế giới huyền ảo, thế giới của những cảm quan nghệ thuật được mở rộng từ các giác quan thẩm mĩ. Sự tương ứng các giác quan đã có từ Xuân Diệu với những tổ hợp từ lạ: "Long lanh tiếng sỏi", "Một tiếng cười hương", "Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi !", sang đến Bích Khê và Hàn Mặc Tử thì càng có độ "chín". Điều này từ Xuân Diệu đến Đoàn Phú Tứ, Bích Khê là sự vận động liên tục, là cuộc chạy tiếp sức.
Ảnh hưởng tư tưởng nghệ thuật của Baudelaire ở quan niệm "tương ứng giữa các giác quan" nên các nhà thơ đặc biệt chú ý đến sự dao động giữa ngữ âm và ngữ nghĩa, đưa thơ đi về phía tượng trưng.. Trong Thơ mới, những hư ảo, huyền thoại, tượng trưng, siêu thực, huyền ảo, kinh dị... đậm đặc trong lớp từ mang màu sắc tôn giáo của Hàn Mặc Tử; hồn của Bích Khê; ma của Chế Lan Viên...Vào khoảng 1941 – 1945, Thơ mới cũng đã có nhánh rẽ về hướng siêu thực với các tác phẩm của Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Hàn Mặc Tử, Bích Khê...Việc đổi mới này đã làm tăng vốn từ vựng, mở rộng biên giới từ, thơ diễn tả được nhiều ý tứ mới. Lớp từ mới này trong ngôn ngữ Thơ mới hiếm thấy trong thơ cũ.
Nói đến tính hiện đại trong ngôn ngữ Thơ mới so với thơ cũ không có nghĩa là Thơ mới đoạn tuyệt hẳn nhưng tinh hoa thơ cũ. Những thể thơ cũ như bảy chữ, lục bát…hay luật đối, gieo vần cũ vẫn xuất hiện nhiều trong Thơ mới nhưng được biến hóa tự do, linh hoạt hơn. Ngôn ngữ thơ Huy Cận hài hòa những yếu tố truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây mà rất mới lạ. Thơ lục bát Nguyễn Bính “chân quê” theo một kiểu rất riêng: “Anh đi đấy, anh về đâu?/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”. Sự trở về ngôn ngữ thơ cổ chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của Tiếng Việt và bề dày trầm tích văn hóa truyền thống. Vừa học tập phương Tây, vừa tiếp thu thơ Đường, vừa sử dụng tinh hoa văn học dân tộc, các nhà Thơ mới đã làm được bước tổng hợp quan trọng giữa văn hóa Đông Tây và truyền thống, đưa thơ ca Việt Nam tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa.
Có thể thấy, những bước đi đổi mới đầy sáng tạo của ngôn ngữ Thơ mới đã thêu dệt nên những vần thơ hay, đẹp, giàu chất nhạc. Thơ mới có nhiều lớp từ vựng mới, nhiều cách diễn tả lạ chưa từng thấy, đầy cảm xúc, cảm giác. Đó là “ngôn ngữ của thế giới Huyền Diệu” (Xuân Diệu), ngôn ngữ của cái tôi thi nhân thăng hoa cảm xúc. Nó góp phần đưa thơ bước vững vàng trên con đường hiện đại hóa thơ ca.

Thơ không chỉ là độc bạch cái tôi nội cảm của thi nhân

Chứng Minh: “thơ không chỉ là độc bạch cái tôi nội cảm của thi nhân, những cảm xúc ấy được “mã hóa” bằng ngôn từ tinh tế, nhịp điệu linh hoạt, hình tượng nghệ thuật biến ảo đầy hấp dẫn mà còn phải tạo được sức truyền cảm, cộng cảm sâu sắc đối với người đọc” (Chế Lan Viên)

  • Mở  bài:
Thơ có phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm – nhằm bày tỏ tình cảm, cảm xúc, bộc lộ ý nghĩ, cảm tưởng về đối tượng được đề cập đến.
Với Chế Lan Viên, thơ không chỉ là độc bạch cái tôi nội cảm của thi nhân, những cảm xúc ấy được “mã hóa” bằng ngôn từ tinh tế, nhịp điệu linh hoạt, hình tượng nghệ thuật biến ảo đầy hấp dẫn mà còn phải tạo được sức truyền cảm, cộng cảm sâu sắc đối với người đọc.
  • Thân bài:
Bàn luận – Chứng minh:
Nhiều nhà lí luận đặt ra yêu cầu cần phải chú ý đến tính độc lập tương đối của hình thức. Hình thức không hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và trongs vận động của mình, hình thức cũng rất năng động và tích cực. Yêu cầu này phù hợp và có điểm gặp gỡ với Chế Lan Viên. Có thể xác định dễ dàng một câu thơ hay chính là ở sự thể hiện: từ dùng độc đáo, hình ảnh sáng tạo, ngắt nhịp đặc biệt…
Chứng minh:
Thế nhưng việc nghiên cứu tác phẩm phải lưu tâm đến việc đặt tác phẩm trong mối liên hệ với người đọc. Khi người viết sáng tác nên tác phẩm, họ vẫn hướng đến người đọc, mong chờ ở người đọc một sự đồng cảm, chia sẻ. Chính ý đồ giao tiếp, đối thoại vói người đọc, tác động vào người viết, biến tác phẩm là một thông điệp gửi đến người đọc và chờ đợi ở họ sự đón nhận tích cực.
Chứng minh:
Người đọc đóng vai trò là một nhân tố quan trọng vì sự tương tác giữa họv tác phẩm cuối cùng dẫn đến những âm vang, những sự cộng hưởng, những tác động: về cơ bản, những tác động đó luôn kích thích sáng tạo nghệ thuật vươn đến những chân trời mới, những thành tựu, những giá trị ngày càng cao hơn. Những phản hồi từ phía tiếp nhận luôn tạo cho nhà văn tâm thế sáng tạo không ngưng, nâng cao chất lượng nghệ thuật, luôn mang đến những điều mới mẻ, luôn có ý thức cống hiến cho người đọc những tác phẩm hay nhất có thể.
Chứng minh:
Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận:
Văn học giáo dục bằng hình thức hấp dẫn vui tươi, cuốn hút. Tác dụng giáo dục của văn học rất chậm rãi nhưng lâu bền, tinh tế, vô cùng sâu sắc, rất thấm thìa. Muốn vậy, tác phẩm phải được tạo tác với tính chất đa nhiệm: vừa là món ngon tinh thần, vừa để “truyền lửa”.
Như cô gái đẹp cần có nét duyên, câu thơ hay phải ấn tượng cả “hồn” lẫn “xác” (Xuân Diệu). Nhà văn cần có sự “chọn lọc” và “kết tinh” để tạo ra câu thơ hay. Hơn thế, muốn tạo ra câu thơ “gợi cảm – cộng cảm” thì câu thơ ấy cần xuất phát từ “chân cảm” của người sáng tác.
  • Kết bài

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2019

Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập


  Marcell Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Còn Tô Hoài cho  rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
           Bằng hiểu biết của anh/ chị về văn học, hãy bình luận hai ý kiến trên
BÀI LÀM THAM KHẢO
          “Mỗi một con người, trong nội tâm chỉ là một nhà thơ, chỉ khi nào người cuối cùng chết đi, thì mới là mất đi nhà thơ cuối cùng” (Si-mon Phrớt). Mỗi người nghệ sĩ là một thế giới riêng biệt, bí ẩn và đầỵ khám phá. Mỗi tác phẩm nghệ thuật ra đời là sản phẩm của những quá trình chung đúc khác nhau mà ở đó người nghệ sĩ là chủ thể sáng tạo. Bàn về vai trò của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo, Mác-xen Prút từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Còn Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Nhận định của hai tác giả trên dù được trình bàỵ bằng hai cách diễn đạt khác nhau nhưng đều đề cao vai trò của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Hiện thực đời sống được phản ánh trong văn chương ở nhiều chiều, nhiều phương diện khác nhau. Mỗi nghệ sĩ nhìn nhận hiện thực và xây dựng trong tác phẩm của mình những địa hạt riêng biệt và độc đáo. Điều nàỵ phụ thuộc vào cách nhìn, vào quan điểm, vào tư tưởng, vào nhân sinh quan của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ đến với cuộc đời, mang lại cho văn chương một phần: Mặt riêng với những sáng tạo riêng của mình là khi ấy một lần thế giới được tạo lập. Bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật. Con người không chỉ là tâm điểm của cuộc sống mà còn là đối tượng phản ánh trung tâm của văn học, mỗi giai đoạn được khám phá ở những bình diện khác nhau, trong những mối quan hệ khác nhau. Cuộc sống và văn học là một đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người” (Nguyễn Minh Châu). Chính vì thế mà con người là đối tượng trung tâm của văn học.
Thế giới được tạo lập không phải một lần“, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Cảm quan của người nghệ sĩ; đôi mắt của người nghệ sĩ, tài năng của người nghệ sĩ đã tạo lập trong tác phẩm của mình một thế giới quan khác nhau. “Thế giới được tạo lập không phải một lần“. Hiện thực cuộc sống ở tác phẩm này không bao giờ là hiện thực cuộc sống ở tác phẩm khác. Hai tác giả sẽ có hai cách tái hiện cuộc sống khác nhau. Văn chương chân chính không có những lối mòn và người nghệ sĩ chân chính không bao giờ đi theo con đường của người khác. “Nghệ thuật là tự khơi lấy một dòng sông” (chữ dùng của Nam Cao). Bản chất của nghệ thuật là sự sáng tạo. Bởi vậỵ, “mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người nghệ sĩ là thế giới khác nhau và không thể thay thế nhà văn này bằng một nhà văn khác, nhà thơ này bằng một nhà thơ khác. Qua các tác phẩm, bức tranh hiện thực xã hội không chỉ được tái tạo mà còn được phản ánh sinh động, thể hiện tư tưởng, tình cảm; tài năng của người nghệ sĩ. Cái “độc đáo” của người nghệ sĩ là sự sáng tạo, là sự riêng biệt trong cách khám phá hiện thực và đưa hiện thực vào trang viết. Người nghệ sĩ “độc đáo” là người nghệ sĩ có tài năng lớn. “Thế giới được tạo lập” chính là kết quả sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ càng lớn thì “thế giới được tạo lập” trong tác phẩm của họ càng trở nên sâu sắc và thực sự trở thành bước ngoặt vĩ đại. Như tác phẩm của Ăng-ghen về bộ tiểu thuyết Tấn trò đời của Banzắc: Qụa ánh sáng của Banzắc, tôi hiểu được xã hội Pháp nhiều hơn qua tác phẩm của các sử gia, các nhà kinh tế, chính trị; các nhà thống kê thời bấy giờ gộp lại. Văn học là một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống mà mỗi chương của nó là một tác phẩm nghệ thuật thực sự, không có chương nào giống chương nào. Cùng viết về đề tài người nông dân, trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan viết về sự đói nghèo, sự bần cùng; trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố đi sâu vào nỗi khốn cùng vì nạn sưu cao thuế nặng thì Chí Phèo của Nam Cao lại khám phá hiện thực ở bi kịch con người bị cự tuyệt quyền làm người, phải tìm tới cái chết để đòi sự sống. Người ta cũng nhận ra sự khác nhau của chế độ phong kiến hà khắc, giữa làng Mùi trong A.Q chính truyện của Lỗ Tấn với làng Vũ Đại trong tác phẩm của Nam Cao. Đó là sự khác nhau trong quá trình đày đọa con người. Qua cách khám phá hiện thực, người ta nhận ra tư tưởng của nhà văn, nhận ra phong cách riêng biệt, độc đáo của người nghệ sĩ. Càng nhiều sự độc đáo thì nền văn học càng trở nên đa dạng. Văn học thế giới vẫn ca tụng một tình ỵêu bất tử giữa chàng Rô-mê-ô và nàng Giu-li-ét của đại thi hào Sếch-xpia nhưng cũng không thể không rung động trước tình yêu thầm lặng, cao cả trong thơ Puskin:
“Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm
                                           Cầu em được người tình như tôi đã yêu em”                                                                                  (Tôi yêu em)
          Hẳn ta vẫn còn nhớ mãi một mối tình rụt rè, e ấp của chàng trai thôn Đoài với cô gái thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là vịệc của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
(Tương tư)
       Thế giới thiên nhiên muôn đời vẫn tuần hoàn theo bốn mùa. Nhưng các nhà thơ lại nhìn thiên nhiên trong quan hệ bên trong với đời sống tinh thần con người – có đôi mắt xanh non, Xuân Diệu phát hiện ra thiên nhiên mang vẻ đẹp của tình yêu, tuổi trẻ, là thiên đường trên mặt đất. Nhưng cũng cảnh mùa xuân, Chế Lan Viên lại thấy là vô nghĩa, chán chường, tuyệt vọng:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu ?
Với tôi, tất cả nhừ vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
(Chiều xuân)
          Mỗi nghệ sĩ có lí lẽ của riêng mình, không thể nói ai sai ai đúng, ai tầm thường ai cao quý mà mỗi người cho ta một cách cảm nhận thế giới mới, đem đến cho người đọc một liều thuốc giảm đau, xoa dịu con người trước hiện thực tù đọng, đều là cách phủ định hiện thực vô nghĩa. Điều quan trọng qua những ảo ảnh đó, ta có những cách cảm nhận về mùa xuân, thấy yêu cuộc sống.
Văn học khám phá con người một cách đa chiều, toàn diện. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ. Nó không chỉ phản ánh hiện thực cuộc đời, mà hơn thế; nó phản ánh cả hiện thực lòng ngựời. Mác-xen Prút từng đề cập trong nhận định của mình. “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới đựợc tạo lập”. Trong quá trình sáng tạo, người nghệ sĩ nhìn hiện thực cuộc sống qua lăng kính của mình. Hiện thực của cuộc sống là yếu tố đầu tiên, yếu tố quyết định của một tác phẩm. “Mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”, hiện thực thế giới đa dạng và phong phú, bao nhiêu hiện tượng cuộc sống nhưng người nghệ sĩ phải chưng cất hiện tượng điển hình mang tấm phổ quát để đưa vào tác phẩm của mình.
Xét trên cơ sở này) lời nhận định của Mác-xen Prút cũng đồng quan điểm với phát biểu của Tô Hoài. Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời. Cái nhìn của người nghệ sĩ không đơn thuần chỉ là quan sát đời sống, phát hiện khám phá con người. Ẩn sâu trong cái nhìn ấy chứa đựng hiện thực cuộc sống ở chiều đa diện. Văn học vì con người mà có; do con người sáng tạo nên. Điều đó tưởng chừng như là một quy luật bất biến. Nhưng, còn đó những quy luật khắc nghiệt hơn nữa. Câu chuyện văn chương là câu chuyện “thiên cổ sự” như người xưa nói chăng? Thành ra, bàn mãi về văn chương vẫn khôn cùng, mặc dù vẫn phải bàn mãi về văn chương!
Qua các tác phẩm của các nghệ sĩ lớn, người đọc nhận ra những vấn đề lớn lao của thời đại mình, nhận ra những quan điểm nhân sinh sâu sắc về cuộc sống con người. Sáng tạo nghệ thuật là một sáng tạo tinh thần phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người nghệ sĩ. Trong văn học người ta phân biệt tác giả này là lãng mạn, tác giả kia là hiện thực đều phụ thuộc vào thiên hướng của nhà văn, phụ thuộc vào sự lựa chọn của họ. Như vậy, trong nghệ thuật và lựa chọn khuynh hướng, thể loại; thi pháp; cảm hứng bao giờ cũng do chủ quan người nghệ sĩ quyết định. Người nghệ sĩ luôn là chủ thể sáng tạo và hiện thực cuộc sống là yếu tố đầu tiên thể hiện phẩm chất của chủ thể ấy. Vũ Trọng Phụng trong bài phản hồi bài báo Dâm hay không dâm đã phát biểu: “Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trung, hi sinh cho ái tình hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học, chẳng có gì thi vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người nữa… Các ông có thể coi phong trào khiêu vũ là dấu hiệu tiến hóa mà các ông chủ trương. Riêng tôi; tôi chỉ thấy đó là một cách dâm bôn cho tăng số gái giang hồ, một tai họa cho nước nhà”. Chính xuất phát từ cách nhìn về hiện thực cuộc sống khác nhau mà cùng viết về đề tài người phụ nữ, trong khi Nhất Linh của Tự lực văn đoàn xây dựng trong Đoạn tuyệt một cô Linh can đảm chống lại sự hà khắc của chế độ phong kiến tồn tại ở gia đình nhà chồng thì Vũ Trọng Phụng lại miêu tả trong Số đỏ một thằng Xuân Tóc Đỏ ma lanh, lố bịch, dốt nát và kệch cỡm. Hiện thực cuộc sống cùng với con mắt khác nhau đã hình thành nên những người nghệ sĩ khác nhau hướng ngòi bút của họ tới những đối tượng, những đề tài khác nhau nhưng trên “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Như vậy, cái quan trọng không phải là anh viết về cái gì mà quan trọng hơn là anh viết như thế nào, anh viết để làm gì. Bởi cách anh sáng tạo nghệ thuật mới thể hiện tư tưởng của anh hướng tới hiện thực và hướng vào người đọc một tư tưởng nhân văn. Có người nghệ sĩ viết về cái tốt để ca ngợi cái tốt nhưng cũng có người nghệ sĩ muốn ca ngợi cái tốt lại viết về cái xấu, nói cái xấu để phê phán, để căm ghét và khơi gợi trong lòng người sự hướng tới cái tốt đẹp hơn. Tất cả đều phụ thuộc vào đối mắt của người nghệ sĩ. Nếu nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn con người thì đôi mắt của người nghệ sĩ là cửa sổ tâm hồn của tác phẩm. Tư tưởng của họ, nhân sinh quan của họ được soi chiếu trong đó. Bởi, qua “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.
Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện cổ tích do chính cuộc sống viết ra” (An-đéc-xen). Không có tác phẩm văn học nào lại không là sản phẩm của cuộc sống hiện thực và đẹp hơn nhờ cuộc sống hiện thực. Và cũng không có gì thay thế được văn học khi phản ánh những giá trị cao cả của con người và cuộc đời. Một tác phẩm văn học có đứng vững trong lòng người hay không chính là nhờ tài năng và phẩm chất của người nghệ sĩ. Phải qua bàn tay nhào nặn của nhà văn, mỗi tác phẩm mới thực sự “soi bóng thời đại”. Viết vể hình ảnh người nông dân Kim Lân tìm đến với những người nông dân nơi xóm ngụ cư nghèo khổ – nạn nhân của nạn đói năm 1945. Câu chuyện mở ra tình huống có phần kì lạ: Anh Tràng nhặt được vợ. Dân gian xưa và nay vẫn quan niệm chuyện cưới xin là câu chuyện trăm năm, trang trọng thiêng liêng, nhưng ở đâỵ không có một đám rước dâu nào, không sính lễ, tặng vật, con người đã đến với nhau giữa cái khốc liệt của những ngày dài đói kém. Song điều đặc biệt ở chỗ Kim Lân đã không khai thác hiện thực thê thảm của nạn đói, nghịch cảnh mà rất dễ dẫn con người ta đến sự tha hóa về nhân phẩm vì miếng ăn. Ông đã khai thác chủ đề này ở phương diện tình thương, từ nghèo khổ, ánh sáng của tình người đã được thắp sáng. Khác với những lời lo âu bàn tán giữa cảnh này mà lại còn đèo bòng, giữa cái nhìn lo lắng; băn khoăn của bà cụ Tứ, anh Tràng thấy “phớn phở” lạ thường. Hắn đi cạnh người phụ nữ kế bên trong niềm sung sướng, hãnh diện. Tâm trạng của Tràng có sự chuyển biến đặc sắc từ hình ảnh một anh cu Tràng xấu xí dở hơi thành một người đàn ông có vợ, nói năng như tình tứ hơn, dí dỏm hơn. “Có một cái gì lạ lắm như chưa bao giờ có ở người đàn ông nghèo khổ ấy, một cái gì ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ lên sống lưng”. Mọi sự như đều đổi thay trước mắt Tràng, tình yêu thương khiến anh quên đi mọi khổ đau, hiện thực cám cảnh đẩy ra trước mắt, anh như sống trong một thế giới khác, thế giới êm ái lạ lùng; mênh manh như lơ lửng ở một tầng không nào đó. Từ một tình huống độc đáo hứa hẹn những chi tiết thú vị hấp dẫn, song câu chuỵện Ịại lắng trong lòng ta hơi ấm của cuộc sống, sức mạnh của tình yêu thương làm cuộc sống hồi sinh. Vậy là đâu cần những trang tiểu thuyết dày dặn bề bộn, đâu cần những vần thơ ngân nga sâu lắng; triết lí nhân sinh trong từng trang truyện ngắn vẫn dần thấm sâu vào tâm hồn ta như thứ thuốc bắc càng ngấm càng ngọt.
Mỗi người nghệ sĩ xây dựng trong tâm hồn của mình, trong tác phẩm của mình một thế giới tình ái riêng biệt; không thể so sánh. “Thơ mở ra một cái gì đó mà trước nhà thơ đó, trước câu thơ đó còn bị phong kín” (Nguyễn Tuân). Sức sáng tạo của con người là vô hạn. Bởi vậy, “thế giới được tạo lập không phải một lần” mà rất nhiều lần. Mỗi lần “thế giới được tạo lập” là một lần ta phát hiện thêm những điều mới mẻ về hiện thực cuộc sống. Cái thần của sáng tạo chính là cũng ở người ấy, việc ấỵ, cảnh ấy, ngòi bút người nghệ sĩ đã tìm ra những dáng vẻ riêng biệt trong khi ta trễ nải nhác qua, chẳng thấy khơi gợi được điều gì. Nhận định của Mác-xen Prút đã đề cao vai trò sáng tạo của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tác. Cùng với nhận định của Tô Hoài, nó đặt ra yêu cầu về thiên chức của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo. Người nghệ sĩ phải có khả năng quan sát tinh tường, phải dấn thân nhập cuộc và cố tìm hiểu để khám phá hiện thực và phản ánh một cách chân thực/khách quan vào trong tác phẩm để qua “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Nhưng sự phản ánh đó không bao giờ được bắt chước, được lặp lại. “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có” (Nam Cao). Nghệ thuật phải góp phần cải tạo xã hội. Sáng tạo theo nghĩa đẹp nhất của nó là khám phá ra cái mới, cái lớn, cái đẹp của chính cuộc sống, thời đại, của thế giới tình cảm con người. Người nghệ sĩ chân chính phải sáng tạo nên được thế giới mới và “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá mới về nội dung” (Lêônit Lêônôp). Nghệ thuật chân chính không phải là sự hời hợt, giản đơn với đời sống. Nó phải là sự gắn kết chặt chẽ với cuộc đời, Nó đòi hỏi người cầm bút phải có một sự trải nghiệm, thấm thía sâu sắc về cuộc sống và con người. Người cầm bút phải biết lấy chữ của đời, cần cù sáng tạo tích cóp làm nên văn chương nghệ thuật soi bóng thời đại:
Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt những chữ của đời mà góp nên trang.
(Chế Lan Viên)
         Muốn thế, bàn viết của người cầm bút phải đặt giữa cuộc đời. Người nghệ sĩ phải trải lòng ra với cuộc đời“sống rồi hãy viết” biết chắt lọc, tích lũy vốn sống từ hiện thực để viết nên trang.
“Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại” không chỉ cần đôi mắt hiện thực mà còn cần có đôi mắt tình thương. Mỗi tác phẩm viết ra phải là một bài ca về lòng thương, lòng nhân đạo, phải có “khả năng cải tạo con người, thanh lọc tình cảm” (chữ dùng của Ari-xtốt) và hướng con người tới những gì là cao đẹp. Tiếng gọi của lương tâm và lòng tin ở tương lai không cho phép những nhà văn chân chính sống trên trái đất như một bông hoa điếc và không truyền đạt cho người khác một cách hào phóng nhất tất cả cái phong phú của tư tưởng và tình cảm tràn ngập trong chính tâm hồn nhà văn. Vấn đề “tạo lập thế giới độc đáo” của Mác-xen Prút và yêu cầu “soi bóng thời đại” của Tô Hoài đã trở thành những yêu cầu của văn học muôn đời.
Văn chương chân chính phải khiến cho người ta thấy những gì cao đẹp trong cái vi mô nhỏ bé, người ta phải ngưỡng mộ thán phục những gì bắt nguồn từ ngay chính bên ta. Cuộc sống vẫn tiếp nối, ngày nối ngày và thời gian chảy trôi như một dòng sông không bao giờ quay lại song văn học lưu giữ được những gì đẹp nhất trên mỗi dòng nước tưởng chừng vô hạn ấy. Cuộc sống đã trôi chảy vào con tim của người nghệ sĩ trở thành những vết khắc trong tim để trên mỗi trang văn là những khám phá độc đáo để soi bóng thời đại.
Trong văn học không thể có những nông trang tập thể. Mỗi nghệ sĩ cần có riêng cánh đồng và có riêng thửa ruộng của mình. Cánh đồng đó, thửa ruộng đó là thế giới riêng của mỗi người nghệ sĩ. Những thửa ruộng đó tạo nên bộ mặt của cánh đồng văn học nhân loại và đòi hỏi những thế hệ mai sau phải cày xới và chăm bón.
Triệu Cẩm Quyên
THPT Việt Đức – Hà Nội, Bài đoạt giải Nhất -18/20 điểm

  ĐỀ: “Một vầng trăng in trong gương Vẫn là một vầng trăng. Vầng trăng qua lòng mắt người nghệ sĩ Có thể thành vô vàn nét đẹp.” (Theo Phạm T...